CÂU LẠC BỘ HƯỚNG DẪN VIÊN
ĐỒNG
HÀNH VIỆT
TÀI
LIỆU TUYẾN ĐIỂM
PHÚ YÊN – BÌNH ĐỊNH
(BIÊN SOẠN: DZOÃN TIẾN ĐẠT - CHỦ NHIỆM CLB HDV ĐỒNG HÀNH VIỆT)
Năm 2024
Lưu
Hành Nội Bộ
LỜI NÓI ĐẦU
Tài liệu được biên soạn
bởi Dzoãn Tiến Đạt năm 2024, chủ yếu là tuyến điểm Phú Yên – Bình Định và tài
liệu này được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các thành viên trong CLB HDV Đồng
Hành Việt
Tài liệu tham khảo:
-
Sách Phú Yên Đất Và Người Tác
giả: Trần Huyền Ân
-
Sách Tìm hiểu địa danh qua tục ngữ ca dao Phú Yên Tác giả: Nguyễn Đình Chúc
-
Đèo Cả Nguồn:
UBND tỉnh Phú Yên
-
Núi Đá Bia Nguồn:
báo Phú Yên
-
Sách Cẩm Nang Du Lịch Bình Định Nguồn:
UBND tỉnh Bình Định
-
Vũng Rô huyền thoại, ngày ấy và bây giờ Nguồn: Báo điện tử Hải Quân Việt Nam
-
Tháp Nghinh Phong Nguồn:
Đại Học Thuỷ Lợi
-
Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng Nguồn:
Tiền Phong Marathon 2024
làm nên phép lạ.
-
Bài viết về Tây Sơn (vua
Quang Trung)
Nguồn:Lương Ninh 2000,
-
Chương X – Cuộc khủng
hoảng suy vong của chế độ phong kiến và phong trào nông dân Tây Sơn, Lịch sử
Việt Nam giản yếu, Hà Nội, Chính trị Quốc gia, Tr. 291-297.
-
Cẩm Nang Du Lịch Bình
Định Tác giả: Sở Du Lịch tỉnh Bình Định
-
Đầm Thị Nại Nguồng: Cổng thông tin điện tử
UBND Bình Định
Bảo Tàng Quang Trung Nguồn:
Bảo Tàng Quang Trung
Chùa Thập Tháp Nguồn:
Cổng thông tin điện tử
thị xã An Nhơn
BẢNG KM ĐƯỜNG
BỘ VÀ THỜI GIAN
STT |
TUYẾN
ĐƯỜNG |
Số
KM |
THỜI
GIAN |
01 |
Long Xuyên – biển Đại
Lãnh |
650
Km |
12
tiếng |
02 |
Biển Đại Lãnh – Hải
Đăng Mũi Điện (Hải Đăng Đại Lãnh) |
20
Km |
40
phút |
03 |
Hải Đăng Đại Lãnh –
Tháp Nhạn |
33
Km |
60
phút |
04 |
Tháp Nhạn – Bãi Xép –
Gành Ông |
17
Km |
30
phút |
04 |
Bãi Xép Gành Ông - Đầm Ô Loan |
14
Km |
23
phút |
05 |
Đầm Ô Loan – Đèo Cù
Mông |
73km |
1h38p |
06 |
Đầm Ô Loan – TP.Quy
Nhơn |
84
Km |
1h50p |
07 |
Đèo Cù Mông – TP. Quy
Nhơn |
11
Km |
40p |
08 |
TP.Quy Nhơn – Tháp Đôi |
8 Km |
|
06 |
TP. Quy Nhơn – Bến tàu
đi Kỳ Co (Nhơn Hải) |
30
Km |
60p |
07 |
TP. Quy Nhơn – Ghềnh
Ráng |
17
Km |
50p |
08 |
TP Quy Nhơn – Bảo Tàng
Quang Trung |
50
Km |
1h30p |
09 |
TP. Quy Nhơn – Bến tàu
đi Hòn Khô (Nhơn Hải) |
30
Km |
60p |
10 |
TP. Quy Nhơn – KDL Hầm
Hô |
50
Km |
1h30p |
07 |
Kỳ Co – Eo Gió |
6 Km |
20p |
08 |
Eo Gió – Tịnh Xá Ngọc
Hoà |
800m |
11p |
09 |
Tịnh xá Ngọc Hoà – Đồi
Cát Phương Mai |
9km |
30p |
10 |
Đồi Cát Phương Mai –
TP.Quy Nhơn |
11
Km |
40p |
11 |
TP.Quy Nhơn – Chùa Thập
Tháp |
32
Km |
60p |
12 |
TP. Quy Nhơn – Gành Đá
Dĩa |
80
Km |
2h |
13 |
TP.Quy Nhơn – Cây Cầu
Gỗ Ông Cọp |
85
km |
2h |
14 |
Cây Cầu Gỗ Ông Cọp –
Gành Đá Dĩa |
10
km |
22p |
15 |
Gành Đá Dĩa – Nhà thờ
Mằng Lăng |
11km |
40p |
16 |
Gành Đá Dĩa – KS Royal
Khanh Phú Yên |
38
km |
60p |
17 |
Ks Royal Khanh – Tháp
Nghinh Phong |
4 km |
10p |
18 |
Tháp Nghinh Phong – Cây
Cầu Gỗ Ông Cọp |
35Km |
60p |
19 |
TP. Tuy Hoà – Chùa Đá
Trắng |
35
Km |
60
phút |
20 |
TP. Tuy Hoà – Địa đạo
Gò Thì Thùng |
40km |
1h10p |
21 |
TP.Tuy Hoà - Bến Nước
Buôn Chơ |
60
Km |
1h45p |
22 |
Ks Royal Khanh – Hải
Đăng Mũi Điện |
42
Km |
45p |
23 |
Hải Đăng Mũi Điện - NH Thắng Lợi – Nha Trang |
110
km |
3h |
24 |
TP.Nha Trang – Cường 2
– Phan Rang |
100
Km |
3h |
25 |
Phan Rang – Mũi Né |
130
Km |
3h50p |
26 |
Mũi Né – Tiền Giang |
260
Km |
7h |
27 |
Tiền Giang – Long
Xuyên |
135
Km |
4 tiếng |
BIỂN ĐẠI LÃNH NHA TRANG
Cách thành phố Nha Trang khoảng 80km là bãi
biển Đại Lãnh, vùng biển cả mênh mông, xanh biếc, lấp lánh ánh mặt trời. Được
tạo nên bởi bãi cát trắng mịn màng tinh khiết, biển Đại Lãnh có độ thoải lớn và
làn nước trong xanh có thể nhìn rõ tận đáy. Quanh bờ biển, những hàng phi lao
xanh biếc chạy dài.
Địa danh Đại Lãnh nằm kề ranh giới giữa hai
tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, cách thành phố Nha Trang khoảng 80 km và cách thị xã
Tuy Hòa khoảng 30 km.
Từ thị xã Tuy Hòa đi vào, vượt qua đèo Cả,
một con đèo lớn là địa giới của hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên với 12 km đường
đèo quanh co, du khách sẽ thấy hiện ra ngay dưới chân mình một bãi biển khá
rộng, dài với nước biển xanh biếc, lấp lánh ánh mặt trời, thuyền bè tấp nập qua
lại.
Bãi tắm Đại Lãnh được cấu tạo thuần khiết bởi
một thứ cát trắng mịn, nước biển trong xanh nhìn rõ tận đáy, lại có độ thoải
lớn, có thể bơi lội xa bờ. Kế đó lại có ngay một nguồn nước ngọt chảy ra, hòa
vào biển cả, quanh năm không cạn. Từ Đại Lãnh, du khách có thể đi thuyền máy
thăm làng chài ở Khải Lương, Đầm Môn là dải đất liền phía cực đông của Việt
Nam, hay cảng Vũng Rô kề ngay phía bắc, một địa danh nổi tiếng đã từng là bến
cảng bí mật của những “con tàu không số” chở vũ khí, đạn dược từ miền Bắc vào
miền Nam, tiếp viện cho chiến trường khu 5 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước.
Phong cảnh Đại Lãnh từ xưa đã được liệt vào
hàng những danh thắng của đất nước. Năm 1836, vua Minh Mạng cho thợ chạm hình
phong cảnh Đại Lãnh vào một trong chín chiếc đỉnh đồng (Cửu Đỉnh) lớn trang trí
trước sân Thế Miếu – Huế. Năm 1853, dưới triều vua Tự Đức, Đại Lãnh có tên
trong từ điển quốc gia do triều đình biên soạn.
Dù bạn vào Nam hay ra Bắc, bạn đều có thể đi
qua ngọn đèo Cả hùng vĩ, nơi có địa danh Đại Lãnh nổi tiếng với những dải cát
trắng mịn, những cơn sóng vỗ rì rào của biển cả, những làng chài tấp nập và
những phong cảnh sơn thủy hữu tình.
Vẻ đẹp hoang sơ hữu tình của bãi biển Đại
Lãnh Nha Trang. Ai đã một lần đến nơi đây đều khẳng định “Đại Lãnh có thể lọt
top những bãi biển đẹp nhất thế giới với vẻ đẹp thiên nhiên hoang dã, sơn thủy
hữu tình”. Với rừng dương xanh ôm lấy bờ cát mịn màng, dải sóng trắng nhẹ nhàng
lăn trên mặt biển xanh, bãi biển Đại Lãnh là một trong những bãi biển đẹp nhất
của miền Trung và cả nước.
Đại Lãnh vốn được coi là điểm du lịch lý
tưởng, bởi bãi tắm nên thơ này nằm ngay cạnh quốc lộ 1A, có ga hành khách trên
tuyến đường sắt Bắc Nam. Nhưng nay, ở đây chỉ có vài chòi rơm, mấy gian nhà cấp
4 làm quán ăn, đáng kể nhất là tòa nhà xây dở dang, bị bỏ hoang. Phong cảnh tại
bãi biển Đại Lãnh rất đẹp nhờ thiên nhiên ban tặng một bãi biển cát trắng chảy
dài, có độ thoải lớn nên có thể bơi ra xa. Nước biển xanh biếc trong thấy tận
đáy, bãi biển hoang sơ sạch sẽ, kế bên đó là một nguồn nước ngọt chảy ra biển
quanh năm không cạn.
Được chắn bởi đèo Cả phía Bắc, đèo Cổ Mã án
ngữ phía Nam và đảo Hòn Nưa như một pháo đài Đông Bắc, biển Đại Lãnh như một
vịnh nhỏ kín gió luôn êm sóng ngay cả những ngày biển động. Nếu đi từ Nha
Trang, khi xe đến đèo Cổ Mả, phong cảnh bãi biển Đại Lãnh hiện ra như một bức
tranh sơn thủy tuyệt đẹp. Đó là những thảm rừng trải dài xanh ngắt, mặt biển
bao la màu ngọc biếc, dải cát trắng phau hình vòng cung, dài hơn 1 cây số từ
chân đèo Cổ Mã đến mũi Hòn Gion. Nước biển Đại Lãnh xanh biếc, lấp loáng ánh
mặt trời. Xa xa, những chiếc thuyền đánh cá đậu san sát, những hình ảnh đẹp như
một tấm thảm lụa.
Khác với bãi tắm Nha Trang, bãi tắm Đại Lãnh
cạn, ra xa bờ hàng chục mét, nước vẫn chỉ ngấp nghé ngang ngực. Sau khi bơi
lội, vùng vẫy thỏa thuê, bạn lên bờ, nghỉ ngơi trên những chiếc ghế bố trong
lều, trên bãi biển, dưới bóng những cây phi lao cổ thụ. Cũng rất thú vị khi nằm
dài trên tấm thảm lá dương, thanh thản ngắm những đám mây trắng lững lờ ẩn hiện
qua những tán lá rậm rạp. Theo yêu cầu của khách, dân chài đem đến đủ loại hải
sản tươi ngon như mực, cá, tôm, cua, ghẹ, ốc…., Quý Khách sẽ tha hồ chọn. Những
bếp lửa được nhóm ngay dưới những gốc phi lao cổ thụ kín gió và 15 phút sau,
Quý Khách có thể thưởng thức những món ăn đậm đà hương vị biển.
KHU DU LỊCH ĐẠI LÃNH
Địa chỉ: Thôn Đông Nam, Xã Đại Lãnh, Huyện
Vạn Ninh, Nha Trang - Tỉnh Khánh Hòa
Điện thoại:
- Khu Du Lịch: 0258.3842117 - 3842777
- Nhà Hàng Dai Lanh Rest Stop: 0258.3842 842
- 0258.3949 949
Hotline:
- 0345 634 239
- 0345 624 879
Email: info@dailanh.com.vn - Website:
www.dailanh.com.vn
Facebook: Dai Lanh Beach
PHÚ YÊN ĐẤT NƯỚC CON NGƯỜI
Phú Yên cách Nha
Trang 120km. Có diện tích 5.278 km2. Dân số khoảng 768.972 người (1/4/1999).
Phú Yên có một vị trí rất tốt, phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía Nam giáp
Khánh Hòa, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp tỉnh Đaklak và Gia Lai.
Trong đồng bằng duyên hải miền Trung, Phú Yên được xem là vựa lúa lớn vì có diện
tích đất nông nghiệp lớn nhất, 1 năm thu hoạch được rất nhiều. Phú Yên được coi
là vựa lúa là vì địa hình bằng phẳng, thứ 2 đặc biệt là khi người Pháp sang
chúng ta đô hộ và khai thác lúa, gạo, chính sự kiện này cho nên người Pháp đã
thấy là cánh đồng Phú Yên có thể phát triển được và dựa vào con sông Ba người
Pháp đã cho xây một cái đập tên là đập Đoáng Đa, chính đập này đã góp phần giữ
cho nước ở lại trong đập để điều khuyết lượng nước tạo cho lúa thêm trù phú.
Phú Yên có 1 con sông chạy qua đó là sông Ba (còn gọi sông Đà Rằng), cầu Đà Rằng
lớn thứ 3 của đất nước sau cầu Thăng Long và Bắc Mỹ Thuận.
Phú Yên trước đây là một phần của
tỉnh Phú Khánh (Phú Yên – Khánh Hòa) được tách ra từ năm 1989, nhưng cơ sở hạ tầng
thuộc về Khánh Hòa. Vì thế chính phủ đã đầu tư cho Phú Yên 76 triệu USD để phát
triển cơ sở hạ tầng và kinh tế. Các công ty nước ngoài đầu tư vào Phú Yên cũng
được ưu tiên như: công ty lắp ráp điện tử Hàn Quốc và lắp ráp xe motor Yamaha.
Phú Yên có cánh đồng Tuy Hòa với 2000 ha trồng lúa, 5500 ha dừa, 3000 ha điều,
1000 ha cafe, 1000 ha thuốc lá. Phú Yên hiện có những dự án quan trọng như sân
bay dã chiến Đông Tác của quân đội Việt Nam Cộng Hòa sẽ được nâng cấp thành sân
bay dân sự, công trình thủy điện Ong Hinh với công suất 7000 kwh do Nhật Bản viện
trợ. Phú Yên đã từng là đất của vương quốc Chămpa, dấu tích còn sót lại là tháp
Nhạn. Phú Yên có cầu Đà Rằng dài 1080m – dài nhất miền Trung. Từ trên cầu, bên
phải, trên một ngọn đồi cát là tháp Nhạn.
Người Chăm làm thủy lợi giỏi hơn
người Việt .
+ Sân bay Tuy Hòa trước đây là
sân bay Đông Tác dưới thời Mỹ, là sân bay quân sự. Sau giải phóng những người
tham gia đội Sài Gòn cũ đến đây để đi học tập.
+ Tiềm năng và du lịch của Phú
Yên không có nhiều. Ở Phú Yên có tháp Nhạn do người Chăm xây dựng vào khoảng thế
kỷ thứ 9- 11. Tháp Nhạn nằm trên ngọn đồi đang được người ta bảo tồn những loại
cây, loại thực vật quí, và đứng trên ngọn đoài này chúng ta có thể nhìn thấy
toàn cảnh của thành phố Tuy Hoà. Thành phố Tuy Hoà có chiều dài bờ biển khá dài
20km.
+ Phú Yên có một ghành đá nổi tiếng
đó là ghành Đá đĩa vì có nhiều cục đá xếp lên nhau.
+ Núi Chóp Chài là một trong những cứ điểm lớn khi người Mỹ vào
Việt Nam, họ đã dùng những cái chài
+ Trên đầm Ô Loan có nuôi hải sản
đặc biệt là loại sò huyết
+ Nhà thờ Mằng Lăng khá lớn và nổi
tiếng.
Đèo Cả - cung đường hùng vĩ và tuyệt đẹp tại Phú Yên
Phú Yên không chỉ được biết đến là một địa
điểm du lịch hấp dẫn với nhiều bãi biển tuyệt đẹp, những công trình kiến trúc
độc đáo mà còn là một nơi có khung cảnh thiên nhiên hữu tình và những đường đèo
hùng vĩ điển hình là Đèo Cả.
Đèo Cả hiện đang là cung đường mà rất nhiều phượt thủ yêu thích. Con đèo này
được xem là một trong những con đèo lớn nhất tại Việt Nam và sở hữu vẻ đẹp hùng
vĩ nhưng không kém phần hiểm trở. Đến với nơi đây du khách sẽ có thể hòa mình
vào thiên nhiên tươi mát và trút bỏ hết những âu lo thường ngày.
1. Sơ lược về Đèo Cả
Đèo Cả là một con đèo thuộc một trong số các nhánh núi của dãy Trường Sơn. Con
đèo này là cung đường bắt nguồn từ địa phận của tỉnh Khánh Hòa đến thành phố
Tuy Hòa của Phú Yên. Cung đường này có chiều cao khoảng 33m và chiều dài là
khoảng 12km với những khúc đường khá ngoằn ngoèo và hiểm trở.
Hiện nay việc băng qua con đèo này đã trở nên
đơn giản hơn rất nhiều nhờ một hệ thống hầm thông qua đèo đã được xây dựng và
đưa vào sử dụng. Hầm thông đèo này được tạo nên từ những vòm bê tông cốt thép
rất chắc chắn và có hệ thống đèn, hệ thống điện thông gió cực kỳ hiện đại và
hoạt động rất tốt trong hầm.
Không chỉ được xem là một cung đường đèo hiểm
trở bật nhất tại miền trung của Việt Nam, Đèo Cả Phú Yên còn là một
trong số ít những đường đèo sát biển mang đến vẻ đẹp vừa hùng vĩ vừa hữu tình.
Đây là cung đường yêu thích của rất nhiều phượt thủ và là điểm đến du lịch được
nhiều du khách đến tham quan.
2. Câu chuyện lịch sử về Đèo Cả
Đèo Cả không chỉ là một cung đường du lịch tuyệt đẹp và hùng vĩ mà còn là một
con đèo gắn liền với những câu chuyện lịch sử hào hùng. Từ thế kỷ XV, nơi đây
đã được vua Lê Thánh Tông dựng nên một Núi Đá Bia uy nghiêm, sừng sững để làm
cột mốc phân chia ranh giới giữa hai nước là Việt - Chăm.
Con đèo này từng là nơi diễn ra những cuộc
giao tranh cực kỳ sôi nổi giữa Nguyễn Ánh với anh em Nhạc - Lữ - Huệ và cuộc
chiến giữa quân Đại Việt và quân Chiêm Thành. Nhờ sự hiểm trợ của Đèo Cả
mà quân Chiêm Thành đã chiến thắng và khiến cho quân Đại Việt không thể tiến
vào Nam.
Hơn thế nữa, trong cuộc chiến tranh chống
thực dân Pháp nơi đây đã diễn cuộc đấu tranh quyết chiến của mặt trận Việt Minh
để chống lại thực phân Pháp, bảo vệ đất nước vào năm 1947. Trải qua nhiều biến
động của lịch sử, con đèo này vẫn giữ được vẻ đẹp hùng vĩ vốn có của mình.
Khí hậu tại Đèo Cả rất thuận lợi, mát
mẻ nên cây cối tại nơi đây phát triển rất tốt. Cũng nhờ vào điều này mà hệ
thống thực vật ở nơi đây rất phong phú, đa dạng và tạo nên một mảng xanh tươi
mát. Hơn thế nữa nơi đây còn có rất nhiều loại gỗ quý và là nơi mà rất nhiều
loài động vật trú ẩn như: gấu ngựa, tê tê, gấu ngựa, trĩ sao, nhím,...
Khi nhìn từ trên cao và nhìn lại những cung
đường đèo mà mình từng đi qua thì du khách sẽ có thể nhìn thấy những đoạn đường
gấp khúc, uốn lượn cực kỳ hùng vĩ và độc đáo. Du khách đến với nơi đây sẽ có
thể chiêm ngưỡng được vẻ đẹp hùng vĩ, tựa như một bức tranh sơn thủy tuyệt đẹp.
Đèo Cả sở hữu một vẻ đẹp độc đáo với một bên là biển xanh mênh mông, thơ mộng và
một bên chính là núi rừng xanh tươi, hùng vĩ. Tất cả những yếu tố này tạo nên
một khung cảnh yên bình, đẹp mắt và cực kỳ hữu tình. Bất kỳ du khách nào khi đi
qua cung đường đèo này đều muốn dừng chân để chiêm ngưỡng và không khỏi xao
xuyến trước vẻ đẹp hoang sơ của chốn này.
Nếu là một người thích biển thì khi đến Phú
Yên đặc biệt là khi phượt Đèo Cả thì du khách không thể bỏ qua bãi
Môn. Đây là bãi biển nằm giữa hai ngọn núi cao sừng sững, tạo nên một hình
cánh cung cực kỳ khổng lồ và hùng vĩ.
Cảnh sắc của bãi môn được rất nhiều du khách
khen ngợi vì có một bãi cát trắng mịn trải dài, uốn lượn theo vẻ đẹp của làn
nước biển trong xanh, mát lành. Khu vực bãi Môn không có người sinh sống và
chưa đưa vào khai thác du lịch nhiều nên vẫn còn giữ được vẻ đẹp hoang sơ vốn
có.
Được xem là một trong những nét độc đáo nhất
mà Đèo Cả sở hữu, núi Đá Bia thời xưa chính ngọn núi mà vua Lê Thánh Tông đã cho
quân lính khắc lên chữ Cương Vực Đại Việt - lãnh thổ Việt Nam và coi đó
như là một cột mốc ranh giới giữa hai đất nước là Đại Việt và Chăm.
Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những
anh hùng làm nên phép lạ
TPO - Hơn 200 tấn vũ khí từ miền Bắc chi
viện chiến trường Nam Trung Bộ và Tây Nguyên cập bến Vũng Rô, vượt qua hành
trình gian nan vào sâu trong lòng địch, những chiến sỹ trên chuyến tàu không số
năm xưa đã biến điều không thể thành có thể, viết nên câu chuyện huyền thoại và
mốc son đầy tự hào trong lịch sử dân tộc.
|
Đài tưởng niệm tàu không số Vũng Rô tại khu Di tích
lịch sử Vũng Rô. |
“Điều ngỡ chỉ có trong tưởng tượng đang
hiển hiện trước mặt. Như trong thần thoại, con tàu tựa có phép lạ từ xứ sở xa
xăm nào đó bỗng dưng xuất hiện. Nó mang theo nhiều hòm, nhiều bó với những súng
những đạn... Người Phú Yên đã thực sự đang cầm khẩu súng trên tay mà vẫn chưa
dám tin đó là thật”.
Đọc những dòng trong tiểu thuyết Sóng chìm của
nhà văn lão thành Đình Kính, cảm giác của tôi cũng tương tự người dân làng Cát
khi chứng kiến tàu không số cập bến Vũng Rô, sau đó dấy lên câu hỏi, làm cách
nào mà các chiến sỹ năm ấy có thể tạo ra “phép lạ”?. Mặc dù Sóng
chìm mô tả rất chi tiết, nhưng chính nhà văn Đình Kính cũng nói “tiểu
thuyết là văn chương”, và “không chỉ là tiểu thuyết phản ảnh”. Vì vậy, tôi vẫn
muốn đi tìm câu trả lời, tại chính Vũng Rô.
Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán
triều Nguyễn, Vũng Rô trước kia
được gọi là đầm Ô Rô, rộng 10 dặm, trong có đảo Trụ (tức Hòn Nưa), được che chở
bởi núi Bàn, “với thế núi cao vút, phía Tây từ Đại Lãnh đến, kéo dài vài mươi
dặm, phía Bắc tiếp núi Thạch Bi (núi Đá Bia), phía Đông gối lên bờ biển, lại
uốn quanh vào trong che kín vũng biển Vân Phong, thuyền buôn thường đậu ở đó để
tránh gió”.
Khi người Pháp tới Việt Nam, họ sớm nhận ra vị trí chiến
lược của Vũng Rô. Thời Pháp thuộc, công sứ Bình Thuận Etienne Aymonier trong
cuốn Notes sur l'Annam viết rằng “Vũng Rô là nơi trú ẩn tốt và an
toàn nhất trong tất cả các mùa” và “có vị trí chiến lược quan trọng vì nằm ở
phía nam đèo Cả”, ngoài ra, còn có “một ngôi làng của người An Nam cuối Vũng
Rô, nơi có nguồn nước ngọt rất tốt”.
|
Vũng Rô phía
đằng xa nhìn từ hướng Mũi Điện. |
-
-
Aaaa -
-
|
Xung quanh khu vực bãi Chùa
ở Vũng Rô, nơi tiếp nhận những lô vũ khí từ các chuyến tàu không số. |
Nhiều thập kỷ sau, chính "ngôi làng
An Nam" đó, ngay trong lòng địch, là cơ sở vững chắc của cách mạng. Và
Vũng Rô trở thành "nơi trú ẩn" của những chuyến tàu không số, mang
theo vũ khí và tình cảm nhân dân miền Bắc dành cho chiến trường miền Nam.
Năm 1961, trong quá trình xây dựng con đường vận chuyển
vũ khí trên biển Đông, tức đường Hồ Chí
Minh trên biển, nhằm tiếp viện cho chiến trường Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên, đoàn cán bộ Hải quân do đồng chí Huỳnh Kim và Phan Võ dẫn đầu đã vào
Khu V nghiên cứu địa hình, chọn điểm mở bến. Và vịnh Vũng Rô là nơi được lựa
chọn. Theo đánh giá, Vũng Rô có diện tích đủ lớn (hơn 16km2), độ sâu trung bình
từ 14 - 19m, có thể tiếp nhận tàu có tải trọng trên 5.000 tấn. Thêm nữa, có
nhiều bãi bốc dỡ và các dãy núi bao quanh thuận lợi cho việc trú ngụ và cất
giấu vũ khí.
Nhưng địch cũng nhận thức được tầm quan trọng của Vũng
Rô, vậy nên bố trí đông đảo quân lực phòng giữ, từ bốt trên đỉnh đèo Cả đến hạm
đội, duyên đoàn ngoài khơi và trạm ra đa ở đỉnh Chóp Chài. Tuy nhiên, thách
thức cũng chính là cơ hội. Theo Đại tá cựu chiến binh Đặng Phi Thưởng, Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND), nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự
tỉnh Phú Yên, chính vì “khu vực này là vùng cấm và được kiểm soát nên địch sơ
hở, mất cảnh giác, ta lợi dụng thời khắc ban đêm đưa tàu chở vũ khí vào bến an
toàn”.
Tháng 10/1964, Trung ương giao Tỉnh ủy Phú Yên chuẩn bị
mở bến tiếp nhận vũ khí. Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên khi ấy là đồng chí Trần Suyền
trực tiếp lãnh đạo tổ chức bến. Ngày 16/11/1964, Tàu 41 thuộc đoàn 125 chở hơn
60 tấn vũ khí, thuốc men do thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh, một người con của Phú
Yên, và chính trị viên Trần Hoàng Chiếu chỉ huy rời cảng Hải Phòng. Tàu ngụy
trang thành tàu đánh cá, với một số cá, mực được cung cấp bởi Nhà máy Cá hộp Hạ
Long, trong khi lưới trùm lên các khẩu súng 12 ly 7 để khi cần thiết có thể sẵn
sàng chiến đấu.
|
Tàu 41 thuộc
đoàn 125 với 3 lần cập bến Vũng Rô, mang theo hàng trăm tấn vũ khí chi viện. |
|
Anh hùng LLVTND, Trung tá Hồ Đắc Thạnh
(trái) và Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên Trần Suyền (phải). (Ảnh tại khu Di tích lịch
sử Vũng Rô). |
“Lúc đi ngang qua vùng biển Đà Nẵng, máy
bay trinh sát của địch phát hiện, nghi ngờ, báo vào bờ. Hai tàu tuần tiễu của
địch lao ra kèm song song và chĩa thẳng nòng pháo về phía Tàu 41. Nhờ ngụy
trang tốt, lúc đó Tàu 41 mang biển hiệu 412 treo cờ nước ngoài, cho nên tàu
địch bỏ mục tiêu chạy vào bờ. Đúng như kế hoạch, 23 giờ 50 phút ngày
28/11/1964, Tàu 41 cập bến Vũng Rô. Phút gặp gỡ giữa cán bộ, thủy thủ tàu và
lực lượng của ta có mặt tại bến vô cùng xúc động và tràn ngập niềm vui sướng”,
Trung tá cựu chiến binh Hồ Đắc Thạnh, Anh hùng LLVTND, nhớ lại.
Đây chính là khoảnh khắc mà nhà văn Đình Kính mô tả là
“như trong thần thoại” khi con tàu “tựa có phép lạ bỗng dưng xuất hiện”. Những
chiến sỹ kiên trung, với tình yêu nước, lý tưởng cách mạng và sự gan dạ, mưu
trí đã biến điều không thể thành có thể, đưa con tàu vượt qua hải trình gian
nan cập bến thành công, chính ở nơi mà địch tự tin luôn trong tầm kiểm soát.
Ngay khi tàu cập bến, Ban chỉ huy bến huy động hơn 1.000
cán bộ, đảng viên, dân công, du kích, thanh niên xung phong khẩn trương bốc dỡ
hàng hóa. Trên sông Bàn Thạch, thuyền câu ngụy trang chở vũ khí ngược lên Hòa
Mỹ, Hòa Thịnh để dân công đưa hàng vượt dốc Mõ vào Khánh Hòa và lên chiến
trường Tây Nguyên.
|
Câu nói của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
về đường Hồ Chí Minh trên biển được khắc vào cột đá tại khu Di tích lịch sử Vũng Rô, trên đường ra nhà tưởng niệm
và bến tàu bãi Chùa. |
|
Những dòng tri ân các
anh hùng trên những đoàn tàu không số của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt. |
Ông Ngô Văn Định, nguyên chiến sĩ Đại đội
K60 bảo vệ bến Vũng Rô, cho biết: "bà con tập trung ở bến từ chiều nhưng
không biết nhiệm vụ gì. Đến khi nghe nói tàu chở vũ khí miền Bắc chi viện cho
chiến trường Khu V, chúng tôi mừng đến nghẹn ngào”, ông Định kể. “Những khẩu
súng, thùng đạn được bọc kỹ bằng nhiều bọc nhựa, rất nặng. Tôi ôm khẩu súng
được bao nhựa bọc kín, cảm nhận hơi ấm của hậu phương miền Bắc gửi vào mà thấy
thiêng liêng, trào dâng hạnh phúc khó tả”.
Người chiến sĩ Đại đội K60 bảo vệ bến Vũng Rô năm xưa còn
cho biết, “đường Vũng Rô lúc bấy giờ là đường rừng, đèo dốc, dây gai chằng
chịt, thú rừng, cọp có thể nhào ra bất cứ lúc nào, nên chuyện huy động kịp thời
nhân lực tiếp nhận hàng trăm tấn vũ khí, chuyển vũ khí đến nơi cất giấu, tiếp
tục chuyển lên căn cứ, bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ, nhanh gọn và tuyệt đối
an toàn thực sự không đơn giản”.
Đến đêm 25/12/1964, chuyến tàu thứ hai cũng tới nơi, cùng
vũ khí còn có ba tấn gạo tặng đơn vị ở bến Vũng Rô đang thiếu lương thực. Rồi
ngày 1/2/1965, chuyến tàu thứ ba lần nữa cập bến an toàn đúng vào dịp Tết Ất
Tỵ. Như vậy, chưa đầy hai tháng, Tàu 41 do thuyền
trưởng Hồ Đắc Thạnh và Chính trị viên Trần Hoàng Chiếu chỉ huy đã
ba lần cập bến thành công, chi viện hàng trăm tấn vũ khí, thuốc men, đạn dược
cho chiến trường Khu V và Tây Nguyên.
|
Nhà tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ hy sinh ở Vũng Rô. |
|
|
Tháng 2/1965, Bộ Tư lệnh Hải quân giao
nhiệm vụ cho tàu C143 do Thuyền trưởng Lê Văn Thêm, chính trị viên Phan Bá Bảng
phụ trách vận chuyển 60 tấn vũ khí vào Lộ Diêu (Bình Định). Do tình hình cập
bến Bình Định khó khăn nên chuyển sang cập bến Vũng Rô vào 23h ngày 15/2. Sau 4
giờ, hàng được bốc dỡ hết, tàu quay ra nhưng phát hiện tời neo bị hỏng. Không
còn cách nào khác, các chiến sỹ buộc phải sửa, đồng thời lấy cành lá ngụy trang
cho tàu.
Thật không may, thời gian này máy bay tải thương Mỹ liên
tục bay qua nhằm vận chuyển thương binh từ chiến trường Dương Liễu - đèo Nhông
(Bình Định). Chúng bất ngờ phát hiện “mỏm đá lạ nhô ra trên vách núi phía tây
Vũng Rô”. Chúng thả bom xăng, bắn rocket thiêu rụi lớp ngụy trang, trước khi
điều động số lượng lớn máy bay, tàu chiến cùng bộ binh trên đèo Cả kéo xuống
vây ráp.
Bên ta, các thủy tàu cùng bộ đội, dân quân du kích anh
dũng chống trả. “Bằng bất cứ giá nào cũng không để địch cướp tàu”, đêm 17/2,
quân ta quyết định phá hủy tàu C143, mang theo bí mật của “đường Hồ Chí Minh
trên biển”.
|
Mặt biển bình lặng này từng là nơi các
chiến sỹ và dân quân du kích của ta chiến đấu, tạo nên trận Vũng Rô đầy bi
tráng tháng 2/1965. |
|
Nơi tàu C143 bị đánh đắm ở khu vực bãi Chùa, Vũng Rô. |
Bây giờ trên bến Vũng Rô, dưới chân nhà
tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ hy sinh ở Vũng Rô, nhìn ra Bãi Chùa vẫn còn dấu
tích nơi tàu C143 bị đánh đắm. Vũng Rô trở thành Di tích Lịch sử Văn hóa cấp
quốc gia năm 1997. 14 năm sau bia Di tích bến Vũng Rô, Đài tưởng niệm Vũng Rô
hoàn thành, khắc ghi mốc son đầy tự hào trong lịch sử dân tộc.
Theo chú Phạm Văn Sơn, bảo vệ khu Di tích lịch sử Vũng
Rô, mỗi tháng có hàng chục ngàn lượt khách ghé nơi đây để tỏ lòng thành kính
trước các anh hùng liệt sỹ. Dưới những tán cây, họ được nghe và tưởng nhớ lại
năm tháng hào hùng không thể nào quên, với những chiến sỹ không ngại gian khó,
sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Những tán cây ở khu di tích cũng có một câu chuyện thú vị
để kể. Chú Sơn vẫn còn nhớ trận bão lịch sử quét qua Phú Yên và các tỉnh miền
Trung năm 1993, để lại khung cảnh điêu tàn hoang phế. “Nhà cửa, mãi tôn bay hết
cả”, chú nói với PV báo Tiền Phong, “và tôi thấy ngổn ngang cây cối, những
hàng dừa, phi lao, bàng nghiêng ngả. Kỳ lạ là không cây nào gẫy gục. Khi dựng
lại, chúng tiếp tục vươn mình và sống khỏe đến tận bây giờ”.
Trong một sự liên tưởng, đó như minh chứng cho tinh thần
bất khuất, không tiếc máu xương của nhân dân Phú Yên. Dù sống trong lòng địch,
bị đàn áp, khủng bố vẫn rực cháy tình yêu nước, một lòng hướng về cách mạng và
đứng lên đập tan xiềng xích ngụy quyền. Giờ đây, họ lại chung tay phát huy tiềm
năng của vùng biển huyền thoại, tạo nên “phép lạ” trong kinh tế và vững bước
tiến vào tương lai.
|
Đài tưởng niệm tàu không số Vũng Rô
với hình tượng cách điệu, kết hợp mũi neo với ngọn lửa, thể hiện tinh thần
yêu nước và ý chí cách mạng của những chiến sỹ trên
các chuyến tàu không số năm xưa. |
|
Nhà trưng bày các hình ảnh, hiện vật của các chuyến tàu
không số cập bến Vũng Rô, cùng danh sách các cán bộ. thủy thủ tàu và những liệt sỹ tham gia vận chuyển, bảo vệ các chuyến
tàu không số. |
Vũng Rô - Huyền thoại ngày ấy, bây giờ
Từ đỉnh Đèo Cả, trên huyết mạch giao thông xuyên Việt
nhìn xuống phía Đông là vịnh Vũng Rô nằm giữa dãy núi hình vòng cung. Vũng Rô
thuộc xã Hòa Xuân Nam (thị xã Đông Hòa), bây giờ là một khu kinh tế năng động
của Phú Yên. Bức tranh thiên nhiên nhìn từ đỉnh đèo Cả là một sự tương phản
tuyệt vời. Một bên vách núi dựng đứng, hiểm trở. Một bên là vịnh biển trong
xanh, tàu bè ra khơi vào lộng, những làng chài hiền hòa bên sóng nước.
Những lồng bè nuôi
tôm hùm trên biển mang lại thu nhập cao cho người dân
Nơi ấy có một thời lửa đạn gắn liền với huyền thoại những
con tàu không số vận chuyển vũ khí theo Đường Hồ Chí Minh trên biển vào bến
Vũng Rô chi viện cho chiến trường Nam Trung Bộ. Và trong thời bình, diện mạo
kinh tế - xã hội vùng đất này đổi mới, phát triển, với nhiều kỳ vọng mới trên
chặng đường phía trước. Sức sống mới ở Vũng Rô - Đèo Cả đang căng tràn trên con
đường phát triển, mở ra một vùng đất bình yên, ấm no và hạnh phúc.
Vũng Rô là một vịnh biển, là ranh giới tự nhiên trên biển
giữa Phú Yên với Khánh Hòa. Trong những điểm đến của chuyến tàu không số có
Vũng Rô - một địa danh đã đi vào trang sử hào hùng của dân tộc, niềm tự hào của
quân và dân Phú Yên. Trong nắng mùa Xuân, vùng biển Vũng Rô lung linh như bức
tranh thủy mặc khổng lồ soi mình dưới làn nước. Vịnh Vũng Rô là vùng vịnh biển
xinh đẹp trải dài trong diện tích khoảng 16,4km2 và được bao bọc bởi 3 dãy núi
cao hùng vĩ giữa biển trời gồm Đèo Cả (ở hướng Bắc), Đá Bia (ở hướng Đông), Hòn
Bà (ở hướng Tây) và được đảo Hòn Nưa ở hướng Nam che chắn.
Vùng biển Vũng Rô được che chắn bởi các dãy núi, nên
không có sóng lớn, gió mạnh nào tràn vào. Cả một vùng nước bao la chỉ có những
con sóng nhỏ lăn tăn vờn đuổi nhau. Với nước sâu và êm sóng, Vũng Rô rất thuận
tiện cho các tàu cập bến ăn hàng, trả hàng và tránh bão. Vì có vị trí địa lý
đặc biệt ẩn khuất dưới chân đèo Cả của biển Phú Yên, vịnh Vũng Rô từng được
chọn là điểm cập bến cho nhiều chuyến liên tiếp của “Đoàn tàu không số” chi
viện cho chiến trường miền Nam chống Mỹ, cứu nước, làm nên “Sự kiện Vũng Rô”
năm 1965.
Vịnh Vũng Rô không chỉ được biết đến là di tích lịch sử
huyền thoại trong kháng chiến, đây còn là “miền đất hứa” cho du khách thích yên
tĩnh, khám phá, trải nghiệm những điều mới lạ. Là kiệt tác của thiên nhiên, hội
tụ đầy đủ vẻ đẹp của núi rừng, biển đảo, thác đá, vũng vịnh với màu nước trong
xanh như ngọc bích, những gành đá trầm tích nối tiếp nhau nhô ra vịnh, bãi cát
trắng mịn màng hòa quyện vào nhau như một bức tranh nên thơ, kỳ vĩ ngay trong
lòng xứ Nẫu, chốn bồng lai tiên cảnh này mang vẻ đẹp hoang sơ, quyến rũ, làm mê
lòng biết bao du khách.
Cảnh sắc nơi đây vừa hùng vĩ, lại vừa trữ tình, nên thơ.
Vùng vịnh biển này là bức tranh phong cảnh thiên nhiên nguyên sơ tuyệt đẹp,
được tạo nên từ những chất liệu thiên nhiên thân thuộc, có bầu trời, có đất, có
núi, có biển và có cả mây trắng, rừng xanh. Chẳng thế mà Vũng Rô có tên trong
10 vịnh đẹp hàng đầu của Việt Nam và cũng là vịnh biển đẹp nhất Đông Nam Á, với
những bãi tắm nguyên sơ, yên bình như bãi Lách, bãi Mù U, bãi Chùa, bãi Chân
Trâu, bãi Lau, bãi Nhãn, bãi Bàng… khiến bao người say đắm.
Đổi thay ở miền di tích
Thôn Vũng Rô được chính thức thành lập năm 1986, gồm bãi
Mù U, bãi Lách, bãi Ngà, bãi Chùa, bãi Hồ, bãi Hương, bãi Chính, bãi Lau, bãi
Bàng, bãi Nhãn, mũi Yến, mũi Điện và hòn Nưa. Hiện nay, thôn Vũng Rô ngay cạnh
di tích lịch sử tàu không số Vũng Rô có khoảng hơn 400 gia đình ngư dân quần
tụ. Đây là thôn được tập hợp lại từ những cư dân ở nhiều vùng quê khác nhau như
Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa…
Tuy nhiên, “vùng kinh tế mới” lúc bấy giờ đã có người đến
khai khẩn từ năm 1980. Góp lại từ nhiều miền quê, thôn Vũng Rô thật đặc biệt,
đó là nơi giao thoa của nhiều nét văn hóa, tập quán khác nhau. Một điều có lẽ
khá đặc biệt, đó là hơn 400 hộ dân tất cả đều ấm no, khá giả. Trẻ em đến trường
đầy đủ. Các dịch vụ chăm sóc y tế được người dân chú trọng quan tâm.
Thôn Vũng Rô với
những ngôi nhà kiên cố khang trang, đời sống người dân đã đổi thay mạnh mẽ
Vũng Rô rộng 1.640ha mặt nước, độ sâu có thể tiếp nhận
tàu trọng tải trên 5.000 tấn, được các dãy núi cao Đèo Cả, Đá Bia, Hòn Bà che
chắn cả 3 hướng: Bắc, Đông, Tây. Trong vịnh có nhiều bãi nhỏ gồm: bãi Lách, bãi
Mù U, bãi Ngà, bãi Chùa, bãi Chân Trâu, bãi Hồ, bãi Hàng, bãi Nhỏ, bãi Chính,
bãi Bàng, bãi Lau, bãi Nhãn. Các địa danh như Đá Bia - Vũng Rô - Đèo Cả là
những địa danh lịch sử, văn hóa và du lịch tiêu biểu ở tỉnh Phú Yên. Vũng Rô
được xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia ngày 18/6/1997. Năm 2014, Vũng Rô
được Tổ chức kỷ lục Việt Nam xếp hạng là top 10 vùng vịnh đẹp của Việt Nam.
Đời sống làng chài Xuân Hòa Nam dưới chân đèo Cả là làng
biển nổi tiếng với nghề nuôi tôm hùm, một trong những nơi ngư dân nắm được bí
quyết nuôi tôm hùm sớm nhất Nam Trung Bộ. Người dân ở vùng vịnh nước sâu và kín
gió này đổi đời nhanh chóng, đó là nhờ con tôm hùm. Nghề nuôi tôm hùm bằng lồng
bè khởi nguồn tại đây từ năm 1994. Phần vì nước biển trong, môi trường sạch và
tinh khiết cho tỉ lệ tôm sống, tôm trưởng thành và tôm hùm thương phẩm chất
lượng tốt, thành công cao nhất, làng biển Vũng Rô dần trở nên giàu mạnh, người
dân có thêm nhiều nghề dịch vụ và bắt đầu để tâm sức vào làm du lịch, khai thác
thế mạnh, nét đẹp, đời sống bình dị của một làng biển mà trước đây không ai
nghĩ đến.
Ông Trương Văn Hòa, một ngư dân sống lâu đời trong thôn
cho biết: “So với trước kia thì cuộc sống của người dân Vũng Rô hôm nay đã thay
đổi rất nhiều”. Cuộc sống hiện đại, những ngư dân Vũng Rô kiêm luôn cả nghề
hướng dẫn viên đặc biệt. Ngôi làng ven biển này mỗi năm có hàng triệu lượt
khách đến, nhất là dịp lễ hay ngày nghỉ. Họ mê đắm với khung cảnh thiên nhiên
và con người nơi đây. Họ cũng ngất ngây với sự phong phú trong đời sống văn hóa
và những câu chuyện về biển, đảo do chính những ngư dân kể.
Ông Nguyễn Hải Ninh, Chủ tịch UBND xã Hòa Xuân Nam cho
biết: “Đời sống người dân nơi đây trước kia còn nhiều khó khăn, nhưng nay đã có
nhiều đổi mới. Có thể nói, người dân Vũng Rô luôn đoàn kết, chăm chỉ làm ăn,
xây dựng kinh tế và an cư lạc nghiệp trên quê mới. Người dân Vũng Rô hôm nay đã
biết làm dịch vụ, biết được thị hiếu của du khách nên đã cải thiện được đời
sống kinh tế gia đình, vừa làm cho quê hương thêm giàu đẹp trong mắt bạn bè. Từ
ngày cuộc sống phát triển, con em được học hành đàng hoàng hơn. Mỗi người dân
nơi đây đều mang ý chí vượt lên khó khăn làm ăn để vươn khơi bám biển, mang lại
nguồn sống cho chính mình và cho quê hương”.
Vùng biển huyền thoại Vũng Rô đã phát huy hết thế mạnh
của mình về kinh tế biển và du lịch. Nhiều người đã rất vui mừng trước sự đổi
thay ở vùng đất anh hùng này. Vũng Rô - mảnh đất lưu giữ trong lòng đất, lòng
biển, lòng người chiến tích anh hùng của những đoàn tàu không số, với tất cả
truyền thống lịch sử, tiềm năng về thiên nhiên và con người, đang mạnh mẽ hướng
tới tương lai.
NÚI ĐÁ BIA
Núi Đá Bia là ngọn núi cao nhất trong khối núi Đại Lãnh
thuộc dãy Đèo Cả, có độ cao 706m so với mặt nước biển, là dấu chấm của dãy
Trường Sơn hùng vĩ nhô ra biển Đông. Điểm độc đáo là trên đỉnh có tảng đá to,
cao tới 76m.Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, núi Đá Bia là căn cứ
cách mạng quan trọng, bên dưới phía đông là bến Vũng Rô huyền thoại nơi cập bến
những con tàu Không số. Người dân địa phương coi núi Đá Bia là một trong những
biểu tượng nổi tiếng của đất Phú Yên. Tháng 9/2008, Bộ VHTTDL ban hành quyết
định công nhận thắng cảnh độc nhất vô nhị này là thắng cảnh cấp quốc gia. Núi
thuộc địa phận xã Hòa Xuân Nam, ngoại thị Đông Hòa. Trước năm 2000, muốn leo
lên đỉnh núi Đá Bia không dễ; cả một khối núi toàn đá, cây cối rậm rạp, dây leo
chằng chịt, rồi khe suối, hang động rất nguy hiểm.
Pho huyền thoại hấp dẫn
Núi Đá Bia còn có tên là Thạch Bi Sơn, ông bà ta gọi là
Thiên Nam đệ nhất trụ (trời Nam chỉ có một). Theo hình dáng hòn đá trên đỉnh
núi, người Chăm gọi là núi Cùi Bắp, người Pháp gọi Ngón Tay Chúa và dân địa
phương gọi núi Ông Bia. Mỗi tên gọi khác nhau gắn liền với những pho huyền
thoại ly kỳ và hấp dẫn.
Tương truyền vào mùa xuân năm Tân Mão (1471), vua Lê Thánh
Tông khi thân chinh cầm quân đi mở mang bờ cõi, dừng chân tại núi Đá Bia, ông
cho quân leo lên đỉnh núi ghi rõ cương vực Đại Việt (lãnh thổ Việt Nam) trên
hòn đá và kể từ đó gọi là núi Đá Bia.
Bao đời nay núi Đá Bia là niềm cảm hứng của các tao nhân
mặc khách qua nơi này. Gần 70 năm khi có mặt trong đoàn quân Nam tiến, thi sĩ
Hữu Loan để lại bài thơ “Đèo Cả” và được chọn là một trong 20 bài thơ hay nhất
của thế kỷ XX. Những ngày trời quang mây tạnh, đứng cách xa từ 50-70km
vẫn nhìn thấy hòn Đá Bia mây phủ. Núi Đá Bia rất linh thiêng, biểu trưng cho
sức mạnh của con người và vùng đất Phú Yên.
Nơi bồng lai, tiên cảnh
Năm 2001, đường lên đỉnh núi Đá Bia được
khảo sát và xây dựng, điểm xuất phát dưới chân núi phía tây, bên quốc lộ 1. Con
đường rất độc đáo, với chiều dài 2,5km, có 3 cầu thang bằng bê tông cốt thép,
có cầu thang cao dốc 450; toàn tuyến có 2.071 cấp đi, đôi khi các bậc đi được
tạo bằng việc đục, đắp vữa xi măng trên các triền đá nghiêng.
Trên đường leo lên đỉnh núi Đá Bia nhìn
xuống những đoàn xe ra Bắc vào Nam chỉ bằng hạt đậu nối đuôi nhau như kiến bò,
thỉnh thoảng chim bìm bịp gọi nhau kêu hối hả, dễ làm ta giật mình. Lâu lâu,
đoàn tàu bắc - nam chạy dưới chân núi âm vang dồn dập làm náo động cả cánh
rừng. Cây cối, dây leo đôi khi phủ kín cả lối đi, hai bên đường là thảm thực
vật xanh tốt. Những cây đác ven đường trĩu quả, cây thông thẳng đứng hiên ngang
bên sườn núi; nhiều hang động hai bên đường có hình thù rất kỳ thú, chưa in dấu
chân người. Đôi khi ta bắt gặp con chim diều hâu sải cánh chao nghiêng bên sườn
núi như đang tìm kiếm sự linh thiêng, bí ẩn của núi rừng.
Với 10 lần nghỉ, thời gian khoảng 2 giờ
30 phút, tất cả các thành viên đoàn leo núi đều lên được đỉnh núi. Hôm đó là
một ngày chủ nhật đẹp trời, có nhiều đoàn cùng tham gia leo núi, phần đông là
học sinh, sinh viên. Nhìn những gương mặt tươi trẻ, đôi má ửng hồng, mồ hôi nhễ
nhại, tôi cảm nhận tương lai không xa, nơi đây sẽ là điểm du lịch hấp dẫn của
Phú Yên.
Đứng trên đỉnh núi Đá Bia - điểm ngắm lý
tưởng ở TX Đông Hòa, nhìn về hướng đông là vịnh Vũng Rô xinh đẹp, những con tàu
xa khơi trở về dập dềnh trên mặt nước trong xanh. Chếch về bên trái là ngọn hải
đăng Mũi Điện, điểm cực đông trên đất liền của Tổ quốc, xa hơn là biển Đông
mênh mông như dát bạc. Nhìn về hướng nam là vịnh Vân Phong của tỉnh Khánh Hòa,
bờ cát cong như chiếc lá đa khổng lồ. Quay người về hướng tây - bắc là cánh
đồng lúa Tuy Hòa bát ngát được ôm ấp bởi núi đồi trùng điệp, thấp thoáng những
mái ngói đỏ tươi, tất cả chìm trong màu xanh mạ non.
Ngẩng lên là trời cao lồng lộng xanh thăm
thẳm, đôi khi có những cụm mây trôi qua ta có cảm giác đưa tay với được; bên
cạnh là “cổng trời” gió thổi vi vu, gió mang hơi nước biển tràn về dưới ánh
nắng mặt trời có cảm giác như sương lam chiều se se lạnh. Bên dưới chân núi là
con sông Bàn Thạch uốn lượn xuôi dòng ra biển Đông, xa hơn là TX Đông Hòa như
vườn hoa xuân đa sắc, đang lớn lên từng ngày.
Lúc đi xuống thì nhẹ hơn khi leo lên,
nhưng phải cẩn thận, dễ trượt chân vì lúc này đã thấm mệt. Kinh nghiệm là nên
đi vào mùa khô, đi theo đoàn để động viên, hỗ trợ lẫn nhau; đồ ăn, giày dép,
quần áo cần gọn gàng, mang theo cây gậy nhẹ, dài 1,5m để chống đỡ; nhờ một hai
người địa phương trợ giúp, mang các vật dụng chung cho toàn đoàn. Thời gian lên
xuống, ăn uống, nghỉ ngơi, ngắm cảnh, chụp hình chí ít cũng phải 5 đến 6 giờ.
Tạm biệt núi Đá Bia khi hoàng hôn buông
xuống còn để sót lại những tia nắng vàng sau dãy núi phía tây, hồn ta lắng
đọng, thế là mình đã được đặt chân trên đỉnh núi, được sờ tay lên hòn Đá Bia
linh thiêng và hùng vĩ. Được biết mai đây, dự án Khu đô thị và du lịch văn hóa,
sinh thái nghỉ dưỡng Biển Hồ - Đá Bia của Tổng công ty CP Xuất nhập khẩu Xây
dựng Việt Nam có nội dung mở đường cáp treo lên đỉnh núi Đá Bia. Đây là ước mơ
của bao người để được lên đỉnh núi.
Tuy nhiên, nếu có thể, hãy cùng nhau leo
lên đỉnh núi Đá Bia, bạn mới thấy toại nguyện hành trình du lịch TX Đông Hòa,
nơi đón ánh bình minh đầu tiên trên đất liền của Tổ quốc bên bờ biển Đông.
Núi Đá Bia là danh lam thắng cảnh cấp
quốc gia. Hàng năm, Tỉnh đoàn và Sở VHTTDL Phú Yên tổ chức cuộc thi chinh phục
đỉnh núi Đá Bia vào ngày 27/3 (Ngày Thể thao Việt Nam), thu hút đông đảo người
dân tham gia, nhất là các bạn trẻ. Họ tới đây để khám phá, chinh phục đỉnh cao
này.
THÀNH PHỐ TUY HÒA PHÚ YÊN:
Đầu năm 2005, Chính phủ đã công nhận Tuy Hòa ( Phú Yên) là
thành phố. Nơi đây vốn là một thị xã duyên hải miền Trung thơ mộng và tỉnh cũng
đang định hướng cho xây dựng thành một đô thị hòa quyện với hình thế sông núi độc
đáo.
Có diện tích là 897km2 với dân số khoảng 259.000 người, thành
phố gồm 14 đơn vị hành chính (10 phường và 4 xã). Tuy Hòa giáp với các huyện
Tuy An, Phú Hòa và Đông Hòa (lần lượt từ bắc tới nam). Tuy Hòa cách Tp.HCM
560km theo QL1A. sân bay của thành phố là sân bay Đông Tác.
Có lẽ duyên hải Việt Nam, chỉ Tuy Hòa có 2 ngọn núi nằm giữa
lòng thành phố, đó là núi Nhạn và Chóp Chài. Hai ngọn núi này đã được xây dựng
thành công viên núi, với các vườn thực vật sưu tập phong phú chủng loại hoa,
cây trên thế giới. Núi Nhạn là ngọn núi thơ nổi tiếng nhất nước. Còn Chóp Chài
thì lừng danh “ Chóp Chài đội mũ/ Mây phủ đá bia …” hiện đặt trung tâm phát
sóng truyền hình Việt Nam và phát thanh Phú Yên.
Bãi biển Tuy Hòa không náo nhiệt như nhiều bãi nơi khác, sau
khi đắm mình vào dòng nước xanh Long Thủy, du khách có thể ngồi vùi chân xuống
cát và “nhâm nhi” một ít rượu gạo Quy Hậu nồng nàn với đặc sản tươi ngon như sò
huyết Ô Loan, cua bể Yến, ốc nhảy sông Cầu, tôm bạc Vũng Rô, cháo hàu Tuy An …
còn nếu muốn đàm đạo nước mây thì hệ thống quán cafe với những công thức chế biến
bí truyền pha nước mắm nhĩ sẽ làm say lòng du khách tại các quán Tùng (Tản Đà),
Cổ Gia Trà (Hùng Vương), Thạch Lâm ( Nguyễn Huệ)… để làm quà sau chuyến phiêu
du, khách có thể mua bánh tráng Hòa Đa, nước mắm Gành Đỏ – An Hòa, cá ngựa Vũng
Lắm, mực khô Phú Câu, “Quy Hậu Tửu” – hàng gia dụng mỹ nghệ dừa độc đáo tại
doanh nghiệp Bình SVC (nơi chế tác chiếc bình gáo dừa kỷ lục Việt Nam) ...
Tp.Tuy Hòa cách
thủ đô Hà Nội 1177 km, du khách có thể dễ dàng đi bằng tàu hỏa, ô tô hoặc máy
bay.
Hải đăng Đại Lãnh - nơi bình minh bắt đầu ở Việt Nam
Nhắc đến Phú Yên, mọi người thường
hay nghĩ đến khung cảnh “hoa vàng trên cỏ xanh” thơ mộng trong bộ phim cùng
tên. Tuy nhiên, nơi đây còn có một điểm đến độc đáo mà du khách không thể bỏ
qua khi ghé thăm miền đất này.
Nhắc đến Phú Yên, mọi người thường hay
nghĩ đến khung cảnh “hoa vàng trên cỏ xanh” thơ mộng trong bộ phim cùng tên.
Tuy nhiên, nơi đây còn có một điểm đến độc đáo mà du khách không thể bỏ qua khi
ghé thăm miền đất này.
Đó là ngọn hải đăng Đại Lãnh (hay còn gọi
là hải đăng Mũi Điện), tọa lạc tại điểm cực Đông của Tổ quốc, nơi đón ánh bình
minh đầu tiên trên đất liền Việt Nam.
Vị
trí: Mũi Điện Phú Yên (mũi Đại Lãnh)
ở Thôn Phước Tân, xã Hòa Tâm, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên
Mũi Điện
Phú Yên được bao phủ bởi một màu xanh tươi mát nằm vươn ra biển đón lấy nắng và
gió của tự nhiên. Giới trẻ cực kỳ thích ghé thăm địa điểm này mỗi khi có dịp
khám phá Phú Yên. Đặc biệt đối với những bạn lần đầu đặt chân đấy thì đây còn
là cơ hội tìm hiểu về vùng đất mới. Mũi Điện Phú Yên còn là nơi lý tưởng để cắm
trại qua đêm kết hợp đón những tia nắng bình minh đầu tiên chiếu xuống mặt đất.
Mũi Điện
Phú Yên có núi, có biển, từ xa là ngọn đèn hải đăng đứng sừng sững quay mặt ra
biển, bên dưới chân núi là Bãi Môn được nhiều người yêu thích bởi sự yên tĩnh,
thanh vắng mà bãi biển này mang lại.
Địa điểm này được giới trẻ truyền tai
nhau là nơi “phải đến một lần trong đời”, bởi khoảnh khắc được ngắm nhìn ánh
nắng đầu tiên trên đất liền của Việt Nam sẽ là giây phút không thể nào quên với
bất cứ ai đã được trải qua.
Xúc động, tự hào, và thêm yêu nước là
những cảm xúc tự nhiên chạm tới mỗi người trong khoảnh khắc ấy.
Đường tới Hải đăng Đại Lãnh sẽ đưa bạn
qua những cung đường biển đẹp ngỡ ngàng. Khi đến nơi, chỉ phải tập thể dục một
chút với khoảng 1 cây số đường mòn đi bộ lên núi và leo thêm 100 bậc thang gỗ
trong tháp hải đăng là bạn sẽ được đền đáp xứng đáng với phong cảnh ngoạn mục
nơi đây.
Càng lên cao cảnh vật lại càng hùng vĩ sẽ
khiến bạn phải “mắt chữ A miệng chữ O” vì quá đẹp.
Ngọn hải đăng tại Mũi Điện Phú Yên mang
phong cách kiến trúc Châu Âu vì được người Pháp xây dựng từ năm 1890. Độ cao so
với mực nước biển hơn 110m, hải đăng Mũi Điện Phú Yên không chỉ sở hữu một bầu
không khí trong lành dễ chịu mà còn là nơi để bạn có thể chiêm ngưỡng toàn bộ
khung cảnh mặt trời đỏ rực như hòn lửa đang dần nhô lên khỏi mặt biển.
Từ chân ngọn hải đăng của Mũi Điện Phú
Yên, bạn sẽ phải leo khoảng 100 bậc thang gỗ để lên được đỉnh hải đăng. Từ trên
đỉnh, bạn sẽ dễ dàng mục sở thị nét đẹp cực phẩm của Bãi Môn cùng cảnh núi
rừng, biển xanh mây trắng phủ kín cả xứ Nẫu.
Đứng trên ngọn hải đăng phóng
tầm mắt ra xung quanh, một bên là núi non trùng điệp, một bên là biển rộng mênh
mông, trên đầu mây trắng vời vợi giữa trời xanh thăm thẳm, đúng là bức tranh
tuyệt tác của tạo hóa.
Ẩn sau vẻ đẹp ngỡ ngàng ấy là sự chiến
đấu liên tục không ngừng nghỉ với thiên nhiên. Vì nằm ở vị trí địa lý đặc biệt,
nên hải đăng Đại Lãnh cũng là nơi có khí hậu khắc nghiệt nhất Việt Nam với số
giờ nắng gắt và lượng mưa luôn ở mức cao nhất trển cả nước.
Ý nghĩa đẹp đẽ đó dễ khiến những ai đặt
chân đến nơi đây cảm nhận được bản thân mình rõ hơn, và muốn sống một cuộc đời
đẹp hơn.
NÚI CHÓP CHÀI PHÚ YÊN:
Nằm ở phía tây Quốc lộ 1A, cách trung tâm thị xã
Tuy Hoà 4 km về phía Bắc (thuộc xã Bình Kiến), Chóp Chài còn có tên là Nựu Sơn.
Chóp Chài cao 391 m, nhưng trông thật đường bệ. Người Tuy Hoà xem núi Chóp Chài
cùng với núi Đá Bia là một cặp đài khí tượng báo hiệu nắng mưa:
“Chóp Chài đội mũ
Mây phủ đá Bia
Ếch nhái kêu lia
Trời mưa như đổ”.
Chóp Chài có những dấu tích huyền thoại như Trai Thuỷ tục danh
là Hang Dơi, hang này rộng khoảng 5m, chiều sâu hun hút. Trong hang có những tảng
đá phẳng lì.
Đông, tây, nam, bắc đều có chùa: Hoà Sơn, Minh Sơn, Khánh
Sơn, Bảo Lâm được xây dựng trên lưng sườn núi, nhìn xuống có “Liên trì dục nguyệt”
(Trăng tắm ao sen) rộng khoảng 1,2 ha.
Nựu Sơn nằm giữa vùng thiên nhiên tuyệt đẹp, gắn với những giá
trị nhân văn, đã đi vào lịch sử ký ức của nhân dân trong vùng, nơi đây sẽ là một
điểm du lịch văn hoá, tham quan, ngắm cảnh lý tưởng.
NÚI NHẠN - SÔNG ĐÀ PHÚ YÊN:
Là cụm thắng cảnh đã để lại nhiều ấn tượng với du khách khi đặt
chân đến Phú Yên. Núi Nhạn nằm bên bờ Bắc sông Đà Rằng, thuộc địa phận phường
I, thành phố Tuy Hòa. Núi Nhạn còn có tên gọi khác là “Núi Bảo Tháp” hoặc “Tháp
Dinh”. Đứng ở độ cao 64 m trên đỉnh Núi Nhạn, ta có thể bao quát một vùng non
nước Phú Yên với toàn cảnh thành phố Tuy Hoà, làng hoa Bình Ngọc, núi Đá Bia,
Biển Đông và hai chiếc Cầu đường sắt và đường bộ dài 1.100 m bắt song song qua
sông Đà Rằng. Trên đỉnh Núi Nhạn có Tháp Chàm cổ kính, còn có tên gọi là Tháp
Nhạn được người Chiêm Thành xây dựng vào khoảng thế kỷ 11. Tháp có cấu trúc khối
hình chóp vuông vững chắc cao 25m, gồm tất cả 4 tầng thu nhỏ dần khi lên cao.
Núi Nhạn nằm một góc giữa chỏm cắt của QL1A và nhánh sông
Chùa thuộc phường Bình Nhạn nay gọi là phường I thành phố Tuy Hoà. Núi cao 60
mét so với mặt nước biển, có đường chu vi quanh núi khoảng trên 1 km. Núi Nhạn
có hình thế xoè ra như hình con chim nhạn xoè đôi cánh, với phần đầu là chỗ
giao nhau giữa QL1A và sông Chùa, cổ thon nhỏ lại rồi phình to ra như đôi cánh
chim ở phần đường Tản Đà, vì vậy nên mới có tên gọi này. Cũng có người cho rằng,
ngày xưa núi này như một cù lao nhỏ nằm trong vịnh Tuy Hoà (biển ăn sát đến tận
chân dãy Trường Sơn), là nơi để loài chim nhạn làm tổ, trú ẩn. Sau này, vịnh dần
dần được bồi lấp tạo nên đồng bằng rộng lớn nối liền cù lao Nhạn với đất liền.
Trên núi Nhạn có rất nhiều cây cối rậm rạp, đặc biệt là mai rừng nở vàng vào
mùa xuân và mùa hạ, ở phía đông-nam gần sông Chùa có một trảng sim nhỏ, đến mùa
hoa sim nở tím cả một vùng. Trên núi có nhiều loài chim như nhạn, cò và đặc biệt
là rất nhiều khỉ. Mãi đến năm 1961, khỉ vẫn sống từng đàn trên núi này cho đến
khi chiến tranh ác liệt nổ ra, quân đội Sài Gòn cho đóng đồn và đặt súng đại
bác trên núi ngày đêm bắn phá các vùng căn cứ, yểm trợ cho các cuộc hành quân
nên khỉ đã bỏ về rừng núi đại ngàn, chim chóc cũng di trú nơi khác, cây cối bị
đốn chặt phát quang để phục vụ cho tầm quan sát quân sự.
Trên núi Nhạn có một ngôi tháp do người Chăm xây dựng vào thế kỷ
thứ XII (cũng có tài liệu nói là xây vào thế kỷ XIV). Tháp có bình đồ hình
vuông, mỗi cạnh 10 mét, cao trên 20 mét có đế móng, thân và mái là những gờ gạch
xây nhô ra bên ngoài. Trong tập “Gìn giữ những kiến trúc kiệt tác trong nền văn
hóa Chăm” của nhóm tác giả Lưu Trần Tiêu, Ngô Văn Doanh, Nguyễn Quốc Hùng do
nhà xuất bản Văn hoá dân tộc ấn hành năm 2002 thì tháp có 4 tầng, càng lên cao
càng thu nhỏ lại, nhưng mô hình và cách thức trang trí từ dưới lên đều giống
nhau. Nóc của tháp gồm nhiều lớp xếp, phần chóp được cấu tạo bằng phiến đá
nguyên tảng (đã qua đẽo gọt) có hình búp sen cân đều. Đó là biểu tượng Linga của
người Chăm. Trên đỉnh tháp, bốn mặt đều có bốn cửa sổ giả, tách biệt giữa phần
trên và tầng dưới. Cửa chính ở hướng Đông, phần trên cửa hình vòm, xây cuốn
theo kiểu giật cấp. Những hàng gạch bên trên hơi chồm ra so với hàng gạch dưới.
Càng lên cao thì chồm ra ít hơn cho đến khi khép kín vòm.
So với nhiều tháp khác của người Chăm ở Bình Định, Khánh Hoà,
Phan Rang hay Mỹ Sơn thì ngọn tháp trên núi Nhạn, bên trong không có tượng thờ
cũng như những hoa văn, họa tiết trang trí; duy nhất chỉ thấy những họa tiết
hoa văn hình rồng được chạm khắc biến dạng đi hay cách điệu bằng đá hoa cương đặt
bên ngoài góc tháp.
Bên trong tháp, tường xây thẳng đứng cao vút từ phần đế tháp cho
đến hết phần thân. Phần mái, tường được thu nhỏ dần cho đến đỉnh, tạo thành
hình chóp nón. Trong lòng tháp không có bệ thờ, không có tượng. Từ lâu đời, khoảng
thời Hậu Lê, nhân dân xây một cái am nhỏ phía trước để thờ bà Thượng Đỉnh Chúa
Thiết A Na Diễn Ngọc Phi. Thời chống Pháp am thờ này bị đập phá. Sau này miếu
được xây dựng lại trên nền cũ có đề bốn chữ “Thượng Đỉnh Linh Miếu”.
Về nghệ thuật tạo hình, thân tháp có tạc tượng thần và những
chiếc cột bằng gạch xếp chồng đều nhau thẳng như kẽ chỉ, tạo thành những đường
gờ nhô ra để khi trông vào không có cảm giác nặng nề và đơn điệu của một hình
khối đồ sộ.
Vật liệu xây dựng tháp đều bằng gạch nung với nhiều kích cỡ khác
nhau tuỳ theo vị trí của từng mảng tường, từng tầng tháp và được xếp liền khít,
không thấy mạch hồ song kết dính rất vững chắc. Người ta khó mà biết được kích
cỡ của từng viên gạch, nếu không nhờ vào những nơi bị sứt mẻ, bị ngã đổ. Có nhiều
viên hình chữ nhật kích thước 40 x 20 x 7 cm. Trụ và xà ngang của cửa chính là
khối đá vôi mềm dễ đẽo gọt, đục chạm. Bốn bên mặt ngoài thân tháp có những cột
xây áp vào thân tháp mà mục đích có thể là để gia cố cho tháp được vững chắc. Bắt
đầu cuốn lên mái, ở bốn góc bên ngoài thân tháp (đoạn tiếp giữa thân tháp và
mái) đều được xây nhô ra những trụ hình chóp có kích cỡ rất nhỏ.
Người Pháp gọi núi Nhạn là núi Khỉ (Montagne des Singes) vì
không chỉ trên núi có nhiều khỉ mà chúng còn rất khôn, sống thành bầy đoàn, sẵn
sàng hợp quần chống đỡ lại sự đe doạ từ nhiều phía tới, cũng biết trả thù nếu
có ai đó làm cho một con trong đàn bị thương hay bị bắt. Xưa, phía bên soi Ngọc
Lãng thường trồng bắp, con đầu đàn cho một toán nhỏ canh giữ hai phía đầu cầu
sông Chùa rồi chính nó đích thân đưa cả bầy luồn vào đám bắp bẻ và mang lên
núi. Những khu dân cư sống quanh chân núi Nhạn đều phải cất giữ rất cẩn thận mọi
thức ăn đồ uống, hễ sơ hở là chúng lần vào mang đi mất, chúng hè nhau khiêng cả
nồi hai cơm trèo lên vách núi, lấy cắp hoa quả cúng trên trang thờ…
Mạn đông-nam chân núi Nhạn có ngôi chùa Hàm Long nằm khuất
sau chòm cây cổ thụ, lưng tựa vào vách núi đá lớn dựng đứng, cao ngất như muốn
nhoài ra ôm choàng lấy ngôi chùa như một chiếc quạt khổng lồ xoè rộng. Chùa Hàm
Long sau đổi tên là Kim Long tự và được vua Bảo Đại năm thứ 5 ban sắc tứ.
Dưới chân vách đá, bên cạnh chùa có một cái hang, đường kính chừng
3 mét xuyên vào lòng núi và ăn thông ra bờ sông. Các cụ ngày xưa cho đó là hàm
của con rồng nên mới đặt tên chùa là Hàm Long. Theo truyền thuyết, hơn trăm năm
về trước, cái hang này ăn thông ra bờ sông Chùa. Đã có người thử thả trái bưởi
từ miệng hang, trái bưởi theo đường hầm trôi ra giữa dòng sông và nổi lềnh bềnh
trên mặt nước. Qua thời gian, do lũ lụt, mưa gió làm đất đá chài lấp dần cửa
hang. (Năm 1994, Cty Du Lịch Phú Yên cho mở lại cửa hang để phục vụ khách du lịch,
nhưng công việc bị ngăn lại vì sợ ảnh hưởng đến nền móng của tháp Nhạn đứng bên
trên).
Tháp được chạm khắc khá hài hoà, đường nét tinh xảo, mềm mại là
bậc thầy của nghệ thuật kiến trúc thời bấy giờ và mãi mãi sau này. Ngọn tháp
này tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc độc đáo của người Chăm, vừa mang vẻ đẹp
hoành tráng vừa toát lên vẻ thanh thoát nhẹ nhàng tô điểm cho thành phố Tuy Hoà
vẻ nên thơ.
Chung quanh việc xây dựng ngọn tháp trên núi Nhạn, có nhiều truyền
thuyết khá thú vị: thuở ấy có ông Lương Phù Già (tức Lương Văn Chánh) giao
tranh với quân Chiêm Thành. Chiến trường diễn ra ở phần đất thành phố Tuy Hoà
ngày nay. Quân của ông Phù Già đóng ở núi Nựu (Nựu Sơn), quân Chiêm đóng ở núi
Nhạn để cố thủ. Giao tranh lâu ngày nhưng không phân thắng bại. Để tránh đổ máu
gây tang tóc cho lương dân, hai bên giao ước với nhau sẽ cùng xây tháp, tháp của
bên nào xây to hơn, nhanh hơn là bên đó thắng, bên kia phải rút quân khỏi phần
đất Phú Yên. Địa điểm được hai bên lựa chọn là quân Chăm trên núi Nhạn, quân
ông Phù Già trên núi Cổ Rùa, một phần nhô ra của núi Nựu.
Quân ông Phù Già cho quân lính chặt tre, chẻ thành sợi mỏng
và đan thành những tấm như tấm phên, phất giấy, bôi sơn rồi ghép lại vào các rường
cây thành ngôi tháp cao to đến trăm trượng, phải ngửa mặt mới trông thấy đỉnh,
từ đầu chân tháp bên này ngó qua bên kia con người chỉ bằng hột bắp (!?). Quân
Chăm dốc toàn sức lực ngày đêm xây đắp cho đến khi sắp hoàn thành thì ngọn tháp
của ông Phù Gìa đã hoàn thành, sừng sững một góc trời rất hoành tráng. Quân
Chăm đành phải chấp nhận thua cuộc. Để tránh những hậu hoạ có thể xảy ra (như
dùng ngôi tháp làm nơi cố thủ), ông Phù Già thách thức Chiêm Thành đốt tháp.
Tháp bên nào cháy trước thì bên đó thắng cuộc và bên kia phải rút binh ra cách
xa phần đất ước hẹn trước đây 300 dặm (!?). Quân Chăm y hẹn, cho quân sĩ mang
cây khô, bổi chà chất quanh tháp tầng tầng lớp lớp rồi nổi lửa đốt. Cột lửa bên
núi Nhạn cao ngất trời, cháy từ ngày này qua tháng khác nhưng tháp vẫn cứ đứng
vững như trụ đồng, trong khi đó tháp của ông Phù Già chỉ cháy một đêm, sáng ra
tháp biến mất. Lương Văn Chánh mang đại quân đến chân núi Nhạn buộc quân Chăm
phải thực hiện điều đã ấn định, quân Chăm đành phải rút quân qua khỏi bên kia
đèo Cả.
Ngày nay, cụm thắng cảnh “Núi Nhạn – Sông Đà“ đã trở thành biểu
tượng của Phú Yên và Tháp Nhạn đã được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là Di
tích Kiến trúc - Nghệ thuật cấp Quốc gia.
Hàng năm vào dịp lễ, Tết, trên núi Nhạn có tổ chức nhiều hoạt
động văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải trí ….. Đặc biệt vào rằm tháng Giêng Âm lịch
hàng năm, nơi đây diễn ra đêm thơ Nguyên tiêu thu hút đông đảo văn nghệ sĩ và
du khách gần xa.
TRUYỀN THUYẾT:
Về quá trình hình thành núi, truyền thuyết kể rằng, thuở xa
xưa đất Tuy Hoà là một vùng đầm lầy trũng thấp, là nơi cư trú của nhiều loài
thuỷ sinh và mãnh thú hung dữ. Đời sống của người dân luôn bị đe doạ. Và để tạo
nên một cảnh sống mới, an toàn hơn về mọi mặt, một ngày kia người khổng lồ do
Trời sai xuống gánh núi lấp đầy vùng trũng và lấn ra phía biển Đông. Thiên sứ
khổng lồ kia miệt mài gánh đất và núi, làm rơi vãi từng cụm nhỏ ở núi Miếu (Hoà
Quang) và gành Đá (Hoà Thắng)… và chẳng bao lâu thì lấp đầy cả cánh đồng Tuy
Hoà bây giờ. Đến lượt bắt đầu lấn biển, vị thiên sứ kia gắng làm cho xong để sớm
trở về trời nên đã gánh núi nặng gấp hai ba lần, đến nỗi khi gần tới biển, chiếc
đòn gánh gãy đôi làm rơi xuống hai cụm núi là núi Nhạn và Chóp Chài. Đòn gánh
gãy đồng nghĩa với công việc “xẻ núi lấp sông” không thể tiếp tục được nữa và
thiên sứ khổng lồ nọ đành ngậm ngùi quay về Trời, chưa tạo được những cụm núi
chắn sóng ngoài mạn biển xa. Câu chuyện huyền thoại này được truyền tụng từ khá
lâu và có nhiều chi tiết khác nhau, nhưng nội dung chính là hai hòn núi Chóp
Chài và núi Nhạn là do người khổng lồ làm gãy đòn gánh mà rơi xuống.
Trên núi Nhạn có rất nhiều cây cối rậm rạp, đặc biệt là mai rừng
nở vàng vào mùa xuân và mùa hạ, ở phía Đông-Nam gần sông Chùa có một trảng sim
nhỏ, đến mùa hoa sim nở tím cả một vùng. Trên núi có nhiều loài chim như nhạn,
cò và đặc biệt là rất nhiều khỉ. Mãi đến năm 1961, khỉ vẫn sống từng đàn trên
núi này cho đến khi chiến tranh ác liệt nổ ra, quân đội Sài Gòn cho đóng đồn và
đặt súng đại bác trên núi ngày đêm bắn phá các vùng căn cứ, yểm trợ cho các cuộc
hành quân nên khỉ đã bỏ về rừng núi đại ngàn, chim chóc cũng di trú nơi khác,
cây cối bị đốn chặt phát quang để phục vụ cho tầm quan sát quân sự.
Đứng ở độ cao 64 m trên đỉnh núi Nhạn, du khách có thể bao
quát một vùng non nước Phú Yên với toàn cảnh thành phố Tuy Hoà, làng hoa Bình
Ngọc, núi Đá Bia, biển Đông và hai chiếc Cầu đường sắt và đường bộ dài 1.100 m
bắt song song qua sông Đà Rằng. Trên đỉnh núi Nhạn có Tháp Chàm cổ kính, còn có
tên gọi là Tháp Nhạn được người Chiêm Thành xây dựng.
Mạn Đông-Nam chân núi Nhạn có ngôi chùa Hàm Long nằm khuất
sau chòm cây cổ thụ, lưng tựa vào vách núi đá lớn dựng đứng, cao ngất như muốn
nhoài ra ôm choàng lấy ngôi chùa như một chiếc quạt khổng lồ xoè rộng. Chùa Hàm
Long sau đổi tên là Kim Long tự và được vua Bảo Đại năm thứ 5 ban sắc tứ. Dưới
chân vách đá, bên cạnh chùa có một cái hang, đường kính chừng 3 mét xuyên vào
lòng núi và ăn thông ra bờ sông. Các cụ ngày xưa cho đó là hàm của con rồng nên
mới đặt tên chùa là Hàm Long.
Theo truyền thuyết, hơn trăm năm về trước, cái hang này ăn
thông ra bờ sông Chùa. Đã có người thử thả trái bưởi từ miệng hang, trái bưởi
theo đường hầm trôi ra giữa dòng sông và nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Qua thời
gian, do lũ lụt, mưa gió làm đất đá chài lấp dần cửa hang.
Ngày nay, cụm thắng cảnh “Núi Nhạn – Sông Đà“ đã trở thành biểu
tượng của Phú Yên và Tháp Nhạn đã được công nhận là Di tích Kiến trúc - Nghệ
thuật cấp Quốc gia. Hàng năm vào dịp lễ, Tết, trên núi Nhạn có tổ chức nhiều hoạt
động văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải trí ….. Đặc biệt vào rằm tháng Giêng Âm lịch
hàng năm, nơi đây diễn ra đêm thơ Nguyên tiêu thu hút đông đảo văn nghệ sĩ và
du khách gần xa.
Nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội khi dừng chân bên núi Nhạn đã
không tiếc lời ca ngợi vẻ đẹp của Tuy Hoà và con người Phú Yên:
Nửa thế kỷ rồi qua Phú Yên
Sông Đà núi Nhạn nước non tiên
Bài thơ tương thức tình tương ngộ
Trọng nghĩa tư giao quý bạn hiền
Còn ông Huỳnh Khinh, thi sĩ của quê hương núi Nhạn sông Đà đã có
thơ khi trở lại quê hương sau những ngày khói lửa chiến tranh
Lên chơi núi Nhạn buổi tà dương
Phong cảnh nhìn xem đẹp lạ thường
Trước mặt mây hồng vờn biển bạc
Sau lưng gác tía gợn tia vàng.
THÁP NHẠN PHÚ YÊN
Nằm trên đỉnh Bảo Sơn, phía đông thị xã Tuy Hòa, người ta gọi
là núi Nhạn. Trong số những di tích Chămpa còn sót lại tỉnh Phú Yên, tháp Nhạn
không chỉ là tháp còn nguyên vẹn nhất mà còn có cả về mặt lịch sử cũng như nghệ
thuật. Tuy nhiên tháp Nhạn cũng bị hư hại khá nhiều, đặc biệt là vào thế kỷ thứ
XIX, khi Pháp mới chiếm nước ta một tàu chiến Pháp khi đi qua cửa biển Tuy Hòa
nhìn thấy thap Nhạn, thủy quân Pháp tưởng là pháo đài của ta nên đã nã pháo vào
làm cho đỉnh tháp bị sụp đổ và cổng tháp cũng bị vỡ. Hiện nay cách tháp 30m là
đỉnh tháp bằng đá cao 1,6m, mỗi cạnh rộng 0,9m đó là một chỏm đá có chân hình
vuông được chạm hình cánh sen phía dưới, đỉnh có bầu nhọn. Tháp Nhạn là một
trong những tháp lớn của Chămpa, mỗi cạnh dài 11m, cao gần 20m thuộc loại tháp
tầng hình cuông. Trên các mặt tường của chân tháp được trang trí bằng các cửa
giả như mô típ vốn có của tháp … cửa chính ra vào quay vào hướng đông vẫn còn một
trám cửa bằng đá thể hiện hình SiVa đang múa điệu múa vũ trụ. Giống các tháp
thuộc phong cách chuyển tiếp giữa phong cách Mỹ Sơn A1 và phong cách của Bình Định,
trên mặt tường của Tháp Nhạn không hoa văn trang trí, các cột đứng song song,
khoảng tường giữa các cột ốp chỉ là khung chữ nhật trơn. Vòm cửa giả hình cung
nhọn có đầu hình quái vật Kala trên đỉnh. Các tầng trên là cấu trúc thu nhỏ dần
của phần thân tháp. Do hư hại nhiều nên người ta dùng xi măng che kín cả chân
tháp nên ta không thể thấy được hình dáng trang trí ở phần này. Theo các nhà
nghiên cứu của tháp Nhạn được xây dựng cuối thế kỉ XI đầu thế kỉ XII. Tháp Nhạn
cũng liên quan tới truyền thuyết Pônagar, người ta cho rằng tại đây cũng thờ
bà. Vì trong truyền thuyết xứ Tuy Hòa là nơi đầu tiên bà ghé khi xuống trần và
tại đây bà đã giết chết quỷ dữ, khai thông cửa sông Đà Rằng để dân chúng ra vào
dễ dàng.
Bãi Xép – Ghềnh Ông
Chắc hẳn những ai đã từng xem bộ phim “Tôi thấy
hoa vàng trên cỏ xanh” đều ước rằng mình có thể được chiêm ngưỡng cảnh sắc ấy
ít nhất một lần trong đời. Sẽ thật uổng phí nếu bạn đi du lịch Phú Yên mà không
đến Bãi Xép - Ghềnh Ông - địa điểm xuất hiện ở những phân cảnh đẹp nhất trong bộ
phim nổi tiếng của đạo diễn Victor Vũ.
Giới thiệu chung về Bãi Xép - Ghềnh Ông
Bãi Xép - Ghềnh Ông tọa lạc tại xã An Chấn, huyện Tuy An,
thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Địa điểm này chưa được chú trọng khai thác du
lịch nhiều nên vẫn còn giữ được vẻ đẹp hoang sơ hiếm có. Bãi Xép có chiều dài
500m với 2 bãi đá đen hai bên đầu bãi biển. Nơi đây sở hữu cảnh quan thiên
nhiên đặc sắc với những bãi cát vàng óng ánh chảy dài ra mép sóng. Các tảng đá
đen nhô ra ngoài biển và rừng phi lao rộng lớn xanh mát ngày đêm rì rào cùng
sóng biển.
Ngay cạnh bãi Xép, Ghềnh Ông là một thảo nguyên rộng lớn xanh
mướt màu cỏ non điểm thêm những rặng xương rồng mọc trên đồi. Đứng ở trên đây,
tất cả khung cảnh thiên nhiên sống động, hấp dẫn như được hút hết vào tầm mắt của
bạn.
Tham quan, vui chơi tại Bãi Xép - Ghềnh Ông
Đến với Bãi Xép - Ghềnh Ông, đầu tiên bạn có thể thoải mái chụp
ảnh, thả diều, lang thang trên Ghềnh Ông. Khi đã thấm mệt, muốn đắm mình trong
làn nước xanh mát bạn sẽ xuống Ghềnh để vào Bãi Xép. Được đặt chân lên những
bãi cát mềm mịn, nô đùa cùng những con sóng nối đuôi nhau xô vào bờ, bạn như được
trút bỏ hết mọi ưu tư phiền muộn.
Bên cạnh đó, nơi đây cũng là địa điểm chụp ảnh cưới tuyệt đẹp
được rất nhiều cặp đôi lựa chọn. Để chuyến đi được trọn vẹn hơn, bạn cũng đừng
nên bỏ qua những đặc sản hấp dẫn của miền đất này như cháo hàu, lẩu mực, cá ngừ,...
Từ tháng 2 đến tháng 8 hàng năm là thời điểm lý tưởng nhất để
vi vu đến đây. Lúc này, thời tiết là vào mùa khô nên việc đi lại và vui chơi
thuận tiện hơn rất nhiều. Bạn nên lưu ý rằng phải chuẩn bị sẵn sàng áo và kem
chống nắng khi du lịch Phú Yên nữa nhé!
Ngoài ra, trong các tour du lịch Quy
Nhơn hiện nay cũng kết hợp tham quan các điểm ở Phú Yên. Vì thế,
bạn nên tham khảo thêm để có thể đi được nhiều nơi hơn và cuộc hành trình đến dải
đất Nam Trung Bộ thành công hơn nữa.
Di chuyển từ trung tâm đến Bãi Xép - Ghềnh Ông
Khoảng cách từ trung tâm thành phố Tuy Hòa đến Bãi Xép - Ghềnh
Ông là 13km. Bạn có thể đến đây bằng taxi hay xe máy đều được, sẽ mất khoảng 20
- 25 phút để di chuyển.
Cung đường nhanh nhất để đến những điểm vui chơi này là chạy
thẳng trên đường Lê Duẩn sẽ đến Tuy An. Tuyến đường này được lát phẳng lì, dọc
hai bên đường là những rặng dương xanh mọc nối tiếp nhau vô cùng đẹp. Chỉ đi
trên con đường này thôi cũng sẽ tạo cho bạn cảm giác rất thư thái và mát mẻ.
Tháp Nghinh Phong công trình độc đáo tại Phú
Yên
Theo TS Phạm Trung Lương (Viện Nghiên cứu phát
triển du lịch), Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa mang trong mình giá trị rất
lớn, quý giá, đa dạng và đặc sắc. Việc Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch
di tích này có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển ngành Du lịch Phú
Yên.
Đồng chí Đào Mỹ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh bày tỏ sự
vui mừng khi Phó Thủ tướng phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch Di tích quốc gia đặc biệt
Gành Đá Đĩa. Bởi trước đó, tỉnh cũng có chủ trương đầu tư dự án quy hoạch, tu bổ,
tôn tạo di tích quốc gia đặc biệt này nhằm phát huy hiệu quả tiềm năng, giá trị,
bảo vệ hiệu quả di tích.
Nhiệm vụ quy hoạch Di tích quốc gia đặc biệt Gành
Đá Đĩa được Chính phủ yêu cầu thực hiện trong 24 tháng, tỉnh sẽ chỉ đạo các cơ
quan, đơn vị, địa phương triển khai, hoàn thành sớm để phát huy giá trị di
tích, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.
“Gành Đá Đĩa là thắng cảnh có giá trị đặc biệt của
tỉnh và Việt Nam, là nơi lý tưởng để người dân, du khách đến tham quan thưởng
lãm. Thời gian qua, di tích này vẫn chưa được đầu tư tương xứng với tiềm năng
và lợi thế; giá trị của di tích chưa được phát huy hiệu quả so với sự ưu đãi mà
thiên nhiên ban tặng cho Phú Yên.
Bởi vậy, nhiệm vụ quy hoạch lần này được Chính phủ
phê duyệt là rất quan trọng, ý nghĩa, tỉnh sẽ chỉ đạo thực hiện khẩn trương”,
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đào Mỹ nói.
Phú Yên đã cho xây dựng
tháp Nghinh Phong tại vị trí tuyệt đẹp của thành phố Tuy Hòa và khánh thành vào
đợt 30.04.2022. Tên của tháp có nghĩa là “đón gió” với nhiều gửi gắm trong
thiết kế. Tháp Nghinh Phong mang dáng dấp đặc trưng đã thành thương hiệu của
Gành Đá Đĩa. Tòa tháp đôi Nghinh Phong cao hơn 25 m tại TP Tuy Hòa hiện nay đã
thành điểm tham quan được nhiều người lui tới
Tòa tháp
gây ấn tượng với điểm nhấn được tạo hình Ghềnh Đá Đĩa, lõi bằng bê tông cốt
thép, bên ngoài ốp đá granite. Về đêm, nơi này được chiếu sáng với công nghệ
Bobine Tesia, 3D mapping và laze cường độ cao tạo nên vũ điệu ánh sáng đa sắc
màu.
Lấy cảm hứng từ truyền thuyết "Con Rồng
Cháu Tiên", toà tháp đôi bên cao, bên thấp tượng trưng Lạc Long Quân và Âu
Cơ. Dưới chân mỗi toà tháp là 50 khối đá xếp chồng lên nhau, tượng trưng cho
"trăm trứng trăm con" phải tách nhau theo cha mẹ lên rừng xuống biển.
Giữa hai cột tháp là một khe gió trang trí các hình ảnh về vùng đất "hoa
vàng trên cỏ xanh".
Điều đặc biệt của tháp Nghinh Phong là khoảng
trống giữa hai toà tháp chỉ đủ cho hai người đứng, mỗi khi có gió thổi qua khe
hở sẽ tạo ra âm thanh như bản nhạc từ thiên nhiên và nó là độc nhất dành cho
người thưởng thức.
Tháp Nghinh Phong thuộc dự án không gian công
cộng ven biển, nút giao thông đường Nguyễn Hữu Thọ - Độc Lập (TP Tuy Hòa).
Ngoài tháp đôi, khu vực quảng trường Nghinh Phong còn có các hạng mục khác như
hệ thống kè bảo vệ, công viên, đường đi dạo lát đá granite... với tổng diện
tích hơn 7.000 m2.
Là một trong những người tham gia công trình
với tư cách chủ nhiệm, anh Đỗ Văn Tình (cựu sinh viên khóa 38C Khoa Công trình
Trường Đại học Thủy lợi) luôn khiêm tốn khi nói về địa điểm du lịch mới này.
Hiện nay, ở vai trò Phó Viện trưởng Viện Đào tạo và Khoa học ứng dụng miền
Trung, anh Đỗ Xuân Tình luôn muốn mang nhiều hơn nữa những công trình thủy đặc
trưng vào các ngành kinh tế dịch vụ, góp phần phát triển đời sống vật chất và
tinh thần cho người dân.
Nếu có dịp chơi ở Phú Yên, hãy dành thời gian
tận tưởng bản nhạc của gió tại tháp Nghinh Phong và ngắm công trình do con
người Thủy Lợi góp phần sáng tạo.
CÂY CẦU GỖ ÔNG CỌP
Cầu Ông Cọp (huyện Tuy An) dài 800 m thường
hư hỏng vào mùa mưa bão, được người dân địa phương góp tiền dựng lại để thuận
tiện cho đi lại.
Cầu gỗ Ông Cọp, huyện Tuy An nằm cách quốc
lộ 1 chưa đến trăm mét, đoạn gần dốc Vườn Xoài bắc qua sông Bình Bá (còn gọi là
sông Phú Ngân). Cầu nối các thôn phía bắc xã An Ninh Tây, huyện Tuy An với phường
Xuân Đài, thị xã Sông Cầu. Người dân địa phương đi qua cầu này rút ngắn khoảng
cách khoảng 10 km so với di chuyển từ huyện Tuy An qua thị xã Sông Cầu, hoặc đi
TP Quy Nhơn (Bình Định).
Tuy nhiên, cứ đến mùa mưa bão, cầu lại đổ sập.
Mội số cá nhân đã tự bỏ chi phí để mua nguyên vật liệu để dựng lại cầu, phục vụ
nhu cầu đi lại cho dân địa phương.
Cầu bắt đầu được xây dựng từ năm 1998 với tổng
chi phí hơn một tỷ đồng, do ông Nguyễn Phước Thọ (TP Nha Trang, Khánh Hòa) tự bỏ
tiền đầu tư. Sau này có nhiều người cùng góp vốn và quản lý. Cầu dài khoảng 800
m, rộng 2 m (nơi rộng nhất khoảng 2,3 m) và trụ cao 8-10 m. Những ngày này,
trên cầu có hơn 18 công nhân thi công.
Ông Nguyễn Phúc, một công nhân, cho biết hầu
hết các công đoạn như dựng trụ, xây dàn, lót ván, đóng đinh... đều làm thủ
công. "Để đẩy nhanh tiến độ, suốt 4 tuần qua, chúng tôi tranh thủ làm luôn
ca trưa", ông Phúc nói, cho biết thời tiết thuận lợi, việc dựng lại cầu chỉ
mất 20-30 ngày.
Công nhân dùng que sào cắm xuống đáy sông để
đo chiều dài trụ cầu phù hợp, tránh tình trạng mất cân bằng khiến cầu bị
nghiêng sau khi hoàn thành. Mỗi năm đến mùa mưa, nước lũ chảy xiết thường đánh
sập cầu. Việc đo đạc được thực hiện kỹ lưỡng sẽ giúp công nhân làm cầu trở nên
chắc chắn hơn.
Để thi công trụ cầu, thợ phải dầm mình dưới
nước nhiều giờ. "Trong thời tiết lạnh như thế này, việc ngâm mình dưới nước
liên tục khiến cơ thể mau mất sức. Do đó chúng tôi phải luân phiên mỗi buổi
thay hai người để làm công việc này", nam công nhân cho biết.
Một đoạn tại cầu gỗ Ông Cọp thành hình. Phần
ván cầu làm từ thân cây phi lao, bạch đàn; thành cầu làm bằng thân tre già. Cầu
chỉ thiết kế để xe máy và người đi bộ sử dụng.
Cây cầu hiện phục vụ nhu cầu đi lại cho
hàng nghìn hộ dân ở khu vực lân cận. Ngoài ra, khu vực này cũng là điểm thu hút
nhiều du khách đến tham quan, chụp ảnh lưu niệm.
Ghềnh Đá Đĩa: ngắm nhìn hoàng hôn thơ mộng tại Phú
Yên
Ghềnh Đá Đĩa là địa điểm du lịch ở Phú Yên thuộc địa phận của thôn Phú Hạnh, xã An Ninh
Đông, huyện Tuy An. Nơi đây cách thành phố Tuy Hòa khoảng 40km, gây ấn tượng với
những khối đá đen được thiên nhiên sắp xếp rất trật tự nằm bên bờ biển trong
xanh, nhìn từ xa trông rất giống một chiếc đĩa khổng lồ.
Mới đây,
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã phê duyệt nhiệm vụ lập
Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi Di tích quốc gia đặc biệt
Gành Đá Đĩa trở thành điểm tham quan hấp dẫn của cả nước.
Việc này sẽ giúp phát huy những giá trị độc đáo của
gành Đá Đĩa, thúc đẩy phát triển du lịch Phú Yên.
Bức ảnh “bản đồ Việt Nam”
chụp từ Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa. Ảnh: HUỲNH LÊ VIỄN DUY
Gành
Đá Đĩa được hình thành bởi những cột đá màu đen tuyền, hình lục giác, xếp chồng
lên nhau như những chồng đĩa khổng lồ. Các vỉa đá nứt theo mạch dọc, mạch vòng,
tạo thành những cột thẳng đứng hoặc nghiêng ở ngay bên biển đã tạo nên sự độc
đáo, hấp dẫn của danh thắng này.
Giá trị địa chất độc đáo riêng có
Theo
kết quả nghiên cứu địa chất, đá ở gành Đá Đĩa là loại đá bazan được hình thành
do hoạt động phun trào của núi lửa cách nay hàng triệu năm.
Nham
thạch phun ra từ miệng núi lửa chảy tràn ra biển, gặp nước biển lạnh bất ngờ bị
đông cứng lại, đồng thời xảy ra hiện tượng ứng lực tạo nên sự rạn nứt toàn bộ
khối nham thạch theo mạch dọc, xiên ngang thành những cột đá đứng liền khít
nhau nửa chìm dưới nước nửa nổi trên bờ, tạo nên một gành Đá Đĩa có một không
hai của Việt Nam và số ít gành đá tương tự trên thế giới.
Gành
Đá Đĩa (thuộc xã An Ninh Đông, huyện Tuy An, cách trung tâm TP Tuy Hòa khoảng
40km về phía bắc) rộng khoảng 50m và trải dài hơn 200m (đang phát lộ thêm nhiều
diện tích), là một danh thắng thiên nhiên kỳ thú về cảnh quan, độc đáo về địa
chất ở Việt Nam.
Từ
trên cao, du khách sẽ nhìn thấy gành đá nhoài ra biển, càng ở phía gần mép nước,
những khối đá đen tuyền càng đều, trên bề mặt phiến đá thỉnh thoảng có nhiều lỗ
nhỏ do bị tác động bởi nước biển. Nhiều người ví đây như những ô cấu trúc của tổ
ong, và cả khu vực là một tổ ong khổng lồ, vô cùng kỳ vĩ.
Đặc
biệt, thắng cảnh gành Đá Đĩa, được nhiều nghệ sĩ nhiếp ảnh trong nước tìm đến
sáng tác. Trong đó, nghệ sĩ nhiếp ảnh Huỳnh Lê Viễn Duy, hội viên Hội Văn học
Nghệ thuật Phú Yên, hội viên Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam đã ghi lại một bức
“để đời” của gành Đá Đĩa, với hình chữ S giống như bản đồ Việt Nam.
Di
tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa không chỉ có giá trị về địa chất mà ở đây
còn mang nhiều giá trị về văn hóa, lịch sử… “Gành Đá Đĩa là điểm du lịch trọng
điểm, độc đáo của Phú Yên. Hầu như khách du lịch đến Phú Yên đều phải một lần đến
tham quan danh thắng này”, ông Cao Hồng Nguyên, Trưởng phòng Quản lý du lịch (Sở
VH-TT&DL) cho biết.
Quy hoạch điểm đến du lịch hấp dẫn cả nước
Quyết
định phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi Di tích quốc
gia đặc biệt Gành Đá Đĩa do Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký ngày 4/12 nêu cụ thể
các nội dung phải thực hiện; đồng thời giao UBND tỉnh - cơ quan quản lý lập quy
hoạch và Sở VH-TT&DL Phú Yên - chủ đầu tư, thực hiện nhiệm vụ này trong
vòng 24 tháng, kể từ ngày ký.
Theo
đó, phạm vi nghiên cứu lập quy hoạch gần 809ha (không bao gồm diện tích khoanh
vùng bảo vệ của Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa).
Đối
tượng nghiên cứu lập quy hoạch bao gồm toàn bộ Di tích quốc gia đặc biệt Gành
Đá Đĩa và không gian cảnh quan thiên nhiên, môi trường - sinh thái xung
quanh.
Mục
tiêu lập quy hoạch nhằm nhận diện đầy đủ giá trị và bảo tồn các giá trị đặc sắc
về địa chất của danh thắng gành Đá Đĩa; bảo vệ tài nguyên mặt nước, đa dạng
sinh học, địa chất, địa mạo và di sản văn hóa của cộng đồng trong khu vực; hoàn
thiện hệ thống hồ sơ, dữ liệu làm cơ sở chuyển đổi số và tự động hóa trong quản
lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích.
Việc
lập quy hoạch nhằm phát huy giá trị danh thắng gành Đá Đĩa, trở thành điểm tham
quan du lịch hấp dẫn của tỉnh Phú Yên, vùng Nam Trung Bộ và cả nước; kết nối với
các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh khác tại địa phương, hình
thành chuỗi sản phẩm du lịch, kết hợp phòng hộ, bảo vệ môi trường, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và nâng cao ý thức, trách nhiệm của
cộng đồng trong việc bảo tồn các giá trị độc đáo của danh thắng và di sản văn
hóa truyền thống khu vực. Đồng thời, quy hoạch sẽ xác định ranh giới bảo vệ di
tích làm cơ sở pháp lý để quản lý, bảo vệ; là cơ sở pháp lý thu hút nguồn lực đầu
tư.
CHÙA ĐÁ TRẮNG PHÚ YÊN:
Chùa sắc tứ Từ Quang được xây dựng từ năm 1797
(năm Đinh Tỵ) nằm trên một triền đồi toàn đá trắng nên còn được gọi là chùa Bạch
Thạch (Đá Trắng) thuộc thôn Cần Lương, xã An Dân, huyện Tuy An, cách trung tâm
thành phố Tuy Hoà khoảng 35 km về phía Bắc, cách Quốc lộ 1A khoảng 500 m. Chùa ở
độ cao gần 100 m so với mặt nước biển. Lưng chùa hướng về phía Bắc dựa vào dãy
núi Xuân Đài. Mặt trước chùa hướng về phía Nam, nhìn ra con sông Cái (sông Ngân
Sơn) và sông Nhân Mỹ. Đứng ở sân chùa nhìn bao quát một vùng sông, núi xanh biếc
thật tuyệt vời.
Tổng diện tích đất chùa khoảng 5.000 m2. Phía Tây là nơi xây
dựng tháp thờ các vị hoà thượng khai sáng và trụ trì ở chùa Từ Quang. Khởi thuỷ
là Hoà Thượng Pháp Chuyên tự Luật Truyền hiệu Diệu Nghiêm phái Lâm Tế đời thứ
36. Xung quanh chùa là vườn xoài rất nổi tiếng, đã đi vào thơ ca Phú Yên như là
một sản phẩm rất đặc biệt “Xoài đá trắng, Sắn phường Lụa”. Dưới triều đình nhà
Nguyễn, hàng năm đến vụ xoài người ta thu hoạch chuyển về kinh dâng Vua, nên
xoài Đá trắng có tên là “Xoài Ngự” “Xoài Tiến” và được mang hiệu là “Bạch Thạch
Yêm Ba”.
Chùa Đá Trắng được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận là Di
tích lịch sử – văn hoá cấp Quốc gia năm 1997.
Về mặt bề thế vào thời kỳ đó, chùa Từ Quang được xếp vào loại lớn
nhất trong tỉnh. Và năm Thành Thái được vua ban sắc tứ cho ngôi chùa này. Sau
nhiều lần trùng tu, chùa Từ Quang đẹp hơn, uy nghiêm tráng lệ hơn. Chùa Từ
Quang, phía bắc tựa vào dãy núi Xuân Đài, những cụm đỏ màu trắng nhấp nhô ẩn hiện
trong những chùm cây um tùm càng làm tăng thêm vẻ cổ kính thâm nghiêm.
Ba mặt còn lại là triền núi thoai thoải đổ về hướng đụng với
những bụi nhỏ, cỏ xanh tạo cảm giác cho du khách thập phương như đang đứng ngắm
một thảo nguyên thu nhỏ trong những bức danh họa cổ điển lúc trời quang mây tạnh
nắng hanh nhẹ. Còn phía nam, trước mặt chùa là con sông cái Ngân Sơn – Phú Mỹ
bao bọc tựa một dải lụa bạc trong nắng ban mai. Những buổi chiều ánh sáng phản
chiếu mặt nước biếc dòng sông và dãy núi đá trắng trong khoảnh khắc trời mây
sông núi liền một màu trông rất thơ mộng.
Cách thờ phụng hậu tổ, về hình thức cũng giống như các chùa
khác. Nhưng về nét huy hoàng có phần trội hơn với màu sắc hài hoà khiến cho
khách cảm thấy như được chìm đắm trong ánh đạo vàng vô biên và mầu nhiệm. Vườn
chùa có 8 ngôi tháp xây dựng trên khu đất rộng ở phía tây ngôi chùa. Trong số
đó có một ngôi thật đồ sộ, những ngôi khác nhỏ hơn. Duy có điều bia mộ của ngôi
tháp bị rêu phong xói mòn không còn được vững chắc.
Riêng ngôi tháp của Đại sư Thiện Tu vừa tịch được xây theo kiểu
mẫu những mộ tháp của phái Đại thừa, đặc trưng của Campuchia, TháiLan; dáng
tháp có nhiều vòng tròn lớn nhỏ chồng lên nhau trông như những vầng hào quang của
phật.
Ngôi chùa từ Quang có Đại hồng chung nặng 330 cân, do hoà thượng
Pháp Ngữ ra Huế đúc vào năm Duy Tân thứ chín.
ĐỊA ĐẠO GÒ THÌ THÙNG PHÚ YÊN:
Địa đạo Gò Thì Thùng là một kỳ tích của quân và dân Phú Yên
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được công nhận Di tích lịch sử văn
hóa cấp quốc gia
Kỷ niệm 79 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, sáng 3/2, tại
di tích lịch sử địa đạo Gò Thì Thùng, xã An Xuân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên đã
diễn ra lễ đón nhận bằng Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia địa dạo Gò Thì
Thùng và khai mạc Hội thi đua ngựa truyền thống.
Được khởi công xây dựng vào ngày 10/5/1964 và hoàn tất vào tháng
8/1965, địa đạo Gò Thì Thùng có chiều dài gần 2km và 10km giao thông hào, tạo
thành một mặt trận kiên cố, là cơ sở vững chắc cho bộ đội ta và dân quân du
kích địa phương bố phòng đánh địch, đánh tan nhiều cuộc hành quân của địch
trong chiến tranh cục bộ, làm nên những chiến công vang dội vào mùa khô năm
1966.
Tuy nhiên, để phát huy các giá trị lịch sử văn hóa của di
tích địa đạo Gò Thì Thùng hiện còn rất nhiều việc phải làm. Hiện tại, giao
thông đi lại ở địa đạo còn rất khó khăn, cuộc sống của người dân tuy có được cải
thiện nhưng còn ở mức thấp, nguồn kinh phí đầu tư, tôn tạo địa đạo còn hạn chế…
đang là những trăn trở của địa phương. Tỉnh Phú Yên đang có kế hoạch xây dựng
di tích Gò Thì Thùng trở thành điểm đến trong chương trình hướng tới kỷ niệm
400 năm Phú Yên và Năm du lịch quốc gia 2011, đồng thời nâng cấp lễ hội đua ngựa
truyền thống Gò Thì Thùng lên tầm tỉnh và khu vực.
Ông Lê Kim Anh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên cho biết: UBND
tỉnh đang tập trung đầu tư để di tích này trở thành di sản của quốc gia và là
điểm đến của nhân dân trong và ngoài nước. Hiện nay, tỉnh cũng đã có đầu tư để
nâng cấp đàn ngựa và sẽ tập trung để quảng bá hoạt động này đến với cả nước,
coi như một điểm đến, một hoạt động trong chương trình kỷ niệm 400 năm Phú Yên
và Năm du lịch quốc gia 2011./.
THÁC H’LY PHÚ YÊN:
Thác H’ly, nằm trên thượng nguồn sông Hinh, thuộc buôn Kít,
xã Sông Hinh, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên, nơi tiếp giáp với tỉnh Đắk Lắk.
Khu vực này bao gồm nhiều con suối nhỏ, nằm phía Đông Nam dãy Trường Sơn. Từ thị
trấn Hai Riêng huyện Sông Hinh đến buôn Kít khoảng 15 cây số đường chim bay, du
khách sẽ thấy một dòng sông nhỏ nằm vắt ngang qua núi tạo thành một cái thác
sâu khoảng 20 mét, gọi là thác H’Ly.
Nước từ trên cao, đổ xuống tung bọt trắng xóa trước khi đổ ra
hồ thủy điện Sông Hinh, rồi xuôi dòng nhập vào sông Ba. Chung quanh thác, là những
cây rừng già cao vút, với những chùm phong lan tỏa hương thơm dìu dịu. Du khách
có thể lần theo những bậc đá đen, xuống lòng thác ngâm mình trong dòng nước mát
lạnh và trong vắt vào mùa hè. Thác H’ly, không chỉ có cảnh quan đẹp, nó còn gắn
liền với một chuyện tình lãng mạn. Theo các già làng ở Sông Hinh kể lại, thì
thác H’Ly là cả một thiên tình sử diễm lệ của đôi trai gái yêu nhau, mà không
bao giờ được gần nhau.
Truyền thuyết
Từ thuở xa xưa, trên vùng đất tươi tốt Sông Hinh và Ma Đrắk,
có hai bộ tộc thường xảy ra mâu thuẫn. Người dân hai bộ tộc, luôn mơ ước được sống
trong cảnh thanh bình thịnh vượng, cùng nhau hưởng cảnh ấm no hạnh phú. Niềm mơ
ước này, tưởng có thể trở thành sự thật, khi chàng trai của vị tù trưởng bộ tộc
này, đem lòng yêu thương cô con gái cưng của vị tù trưởng bộ tộc kia. Chàng
trai được mô tả, là con người thông minh, tuấn tú và cô gái kia là một thiếu nữ
đang tuổi mười tám đôi mươi, cực kỳ xinh đẹp, đến nỗi chim công chim trĩ cũng
phải hờn ghen. Nàng đi đến đâu, cũng có hàng đàn bướm sắc màu sặc sỡ bay theo,
những bông hoa rừng đẹp nhất, cũng phải nghiêng đài hoa cúi chào, lay động tỏa
hương thơm ngào ngạt. Nàng tên H’Ly. Nàng H’Ly còn khéo tay dệt những tấm vải đẹp
nhất, nướng những con thú rừng ngon nhất, đức hạnh vẹn toàn…Mối tình của chàng
trai, không bao lâu sau đó, được nàng đáp lại khi nghe tiếng đàn réo rắt như mời
như gọi, đến da diết trong những đêm trăng sáng và ngay cả khi tối trời. Hai
người thường hò hẹn nhau ngay trên bờ sông Hinh, nơi có cánh rừng đại ngàn, có
con sông nước trong xanh với làn hương của muôn loài hoa tỏa bay thơm ngát. Họ
thề ước cùng nhau sống trọn kiếp người trong hạnh phúc lứa đôi và không quên
làm cầu nối, để xóa tan đi những hận thù của hai vị tù trưởng là cha của chàng
và nàng, mang lại cuộc sống ấm no cho hai bộ tộc.
Tuy nhiên, những tâm nguyện tốt đẹp của hai người, đã trở
thành tro than, khi hai bên, lại sử dụng binh lính để giải quyết những bất hoà.
Vị tù trưởng gọi con trai là người yêu của H’Ly đến, phán rằng: “Con hãy đem
quân lính tinh nhuệ nhất giữ vững bờ cõi và chớ để họ lấn sang”. Vâng lệnh cha,
chàng thanh niên mang quân ra đi, nhưng trong lòng mong sao cho hai bên đừng
đánh nhau. Chàng vỗ về và phủ dụ binh lính dưới quyền, rằng ta cứ giữ vững
cương vực của mình là hoàn thành nghĩa vụ, chớ có liều lĩnh hoài phí mạng sống
các người.
Quân của chàng án ngữ dọc địa giới của hai bộ tộc, canh phòng
cẩn mật khiến cho quân của bộ tộc kia không thể tấn công nổi. Tuy nhiên sự canh
phòng, án ngữ quá lâu, nên trong lòng binh sĩ bắt đầu lơi lỏng, cẩu thả trong
việc canh giữ. Nhiều đêm, họ còn gảy đàn, uống rượu ca hát dưới ánh lửa rập rờn.
Đối phương chỉ chờ có vậy và phát lệnh tấn công. Hàng hàng quân lính của đối
phương ào lên như bão như thác, khiến quân lính của chàng không kịp trở tay và
chàng đã bỏ mạng trong trận giáp chiến đó. Đầu chàng được mang về cho vị tù trưởng
xử tội.
Đoàn quân chiến thắng ca khúc khải hoàn. Vị tù rưởng rất hài
lòng với chiến công của binh sĩ dưới quyền và mở tiệc khao quân thật lớn, đồng
thời, mang thủ cấp của chàng trai là người chỉ huy của đối phương bêu lên ngọn
giáo. Vừa mới nhìn thấy đó là đầu của người yêu mình, H’Ly ngã lăn ra bất tỉnh
và ngã bệnh. Vị tù trưởng, cho mời các thầy lang giỏi nhất trong lãnh địa của
mình đến chữa trị cho con gái yêu, nhưng tất thảy đều vô hiệu. Càng ngày, nàng
H’Ly càng vàng võ. Và cho tới một hôm nọ, nàng bỏ nhà ra đi, tới nơi dòng sông
ngồi than khóc cho số phận. Nước mắt nàng làm cho cây rừng chung quanh khô lá,
những bông hoa thôi nở, chim chóc ngừng hót… Nước mắt nàng biến thành con suối,
thành dòng sông và cuộn trào tuôn đi, xói bờ đá cứng thành thác sâu, nước đổ
réo rắt như oán như than, sụt sùi tung bọt trắng ngầu cả một quãng sông dài.
Nàng than khóc mãi, rồi gục chết bên bờ sông. Sau này, cận thần tìm thấy xác
nàng đã hóa thành phiến đá đen, phía trên bậc thác. Các đời sau này, nhớ lại mối
tình bi thảm đó, bèn lấy tên nàng đặt tên cho thác là thác H’Ly.
Một số già làng khác thì kể rằng: Chàng trai và cô gái yêu nhau
nhưng hai vị tù trưởng ra sức cấm cản. Duyên không thành, chàng trai bỏ lên núi
Ngok Linh, còn nàng thì ra bờ suối, nơi hai người đã từng thề ước than khóc. Nước
mắt nàng chảy thành suối thành sông, xói mòn cả vỉa đá biến thành vực thành
thác rồi gục chết tại chỗ. Thương cảm mối tình chung thủy của nàng với người
yêu, dân làng đặt tên thác là thác H’Ly.
BẾN NƯỚC BUÔN CHƠ PHÚ YÊN:
Bến nước Buôn Chơ thuộc xã Krông Pa, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú
Yên, nằm sát bên bờ sông Cà Lúi, một nhánh nhỏ của thượng nguồn sông Ba. Quanh
năm sông Cà Lúi nước trong leo lẻo, đứng trên bờ có thể nhìn thấy rõ ràng khuôn
mặt mình dưới làn nước trong vắt. Người dân buôn Chơ đều lấy nước từ con sông
này dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Đứng trên cao nhìn xuống, thấp thoáng trong
những cánh rừng thưa, mỗi sáng mỗi chiều trai gái trong buôn mang gùi nước ra bến
sông, rực rỡ trong những tấm áo màu trong nắng vàng cao nguyên, toả tràn lên những
tán lá rừng xanh ngắt…
Bên bến nước Buôn Chơ có đó một tảng đá to, bằng phẳng trên phiến
đá ấy có in sâu vết lõm hình bộ xương của con lươn khổng lồ. Bên cạnh đó là tảng
đá khác cũng to lớn và phẳng phiu như vậy, in hình một dấu chân người khổng lồ.
Theo truyền thuyết, đó là dấu chân Y Rít, người đã tìm ra nguồn nước.
Truyền thuyết về dấu chân Y Rít
Tương truyền, thuở xưa dân làng sống rất khó khăn vì thiếu nước.
Mùa mưa, họ đắp bờ ngăn suối để giữ nước nhưng đến mùa khô, nước bị con rắn thần
hút hết, chỉ còn trơ lại lớp sỏi cát khô khốc. Dân trong các buôn lại lại thất
thểu đào bới, vét từng bụm nước đục ngầu bám đầy rong rêu trong các hang hốc.
Có nhiều năm phải chặt những đoạn dây rừng, dùng ống bương hứng lấy chút nước
ít ỏi để khỏi phải chết khát.Y Rít là chàng trai thông minh, quả cảm luôn ray rứt
với đời sống cơ cực của dân làng.
Trước cảnh tình cơ cực của người dân, Y Rít quyết tâm lên đường
đi tìm nguồn nước. Chàng đi từ núi cao xuống lũng sâu, từ trảng tranh xơ xác
này tới đồi núi chập chùng nọ. Đói chàng hái lá rừng ăn tạm, khát chàng chặt những
dây leo chằng chịt tìm chút nước cho đôi môi khỏi bị nứt nẻ. Chàng đi và đi
mãi. Hết ngày này sang ngày khác. Ngày đi đêm nghỉ, ròng rã nhiều tháng liền.
Cho tới một ngày kia chàng mệt lả vì đói và khát, nằm gục bên
gốc cây già, thiếp đi. Trong cơn mê, chàng bỗng nhìn thấy một khối lửa đỏ rực từ
trời cao bay xuống. Và từ trong quả cầu lửa rực rỡ kia, Giàng bước ra, khoan
thai đến trước mặt chàng nói: “Hỡi chàng trai quả cảm của Giàng, con hãy bước
tiếp đi về phía mặt trời, cho tới khi nào nghe thấy tiếng chim hót rộn ràng, tiếng
muôn thú hoan ca thì dừng lại. Đàn bướm đủ sắc màu sẽ đưa con tìm đến nơi con cần
tìm”. Nói vừa dứt câu, Giàng khoan thai bước vào trong quả cầu lửa và bay lên
trời cao. Y Rít bừng tỉnh, mở mắt ra nhìn thì chỉ thấy một cao nguyên bao la,
cây cỏ xanh rì. Tuyệt nhiên không còn nghe và thấy điều gì khác hơn. Y Rít quơ
vội những nắm lá rừng trước mặt mình cho vào miệng nhai ngấu nghiến rồi vội vã
bước thấp bước cao về phía mặt trời với thể xác sắp suy kiệt.
Cuối cùng chàng tìm thấy một dòng sông nước trong vắt cùng với
đàn bướm đủ màu sắc bay lượn chung quanh. Y Rít từ trên bờ cao lao xuống dòng
nước trong, đắm mình trong đó nghe các đường gân, thớ thịt như đang từ từ dãn
ra. Bỗng có một con lươn to hơn con voi rừng, dài hơn những sợi dây mây, xé nước
lao tới đâm bổ vào người chàng. Y Rít nhoài người né sang bên với nỗi bàng
hoàng khôn tả xiết. Con lươn quay đầu lại, ngược dòng nước lao tiếp vào tấn
công chàng. Y Rít nhún người phóng lên bờ cát. Con lươn lao theo quấn chặt chân
chàng giữ lại, cố xé toạc bàn chân chàng. Y Rít dùng hết bình sinh uẩy con lươn
văng ra khỏi chân. Nhưng nó đâu dễ chịu thua. Cuộc chiến dằng dai bất phân thắng
bại, kéo dài mãi đến ngày thứ bảy thì cả hai bên gần như kiệt sức. Nhưng Y Rít
với sự sống còn của bộ tộc mình quyết tâm không để con lươn kia giết chết chàng
trước khi bộ tộc biết được nguồn nước. Và hình như con lươn kia cũng linh cảm
được rằng, nếu không giết chết được chàng trai trẻ kia thì vĩnh viễn giang sơn
của mình sẽ bị loài người chiếm giữ. Điều này đồng nghĩa với đất sống của nó
không còn nữa. Cả hai đều cảm nhận được điều hệ trọng này nên ra sức lần cuối
cùng, quyết quật chết kẻ thù. Chàng Y Rít đứng trên tảng đá thủ thế chờ con
lươn lao tới, và nó đã lao tới với tất cả sức lực còn lại. Y Rít dẫm mạnh chân
xuống tảng đá, tóm được đuôi con lươn, nắm chặt và nhấc bổng lên quay nhiều
vòng trên không. Con lươn rời khỏi làn nước trong, hình như không còn sức lực
như bình thường, nhẹ hẫng. Y Rít nghiến răng, bám chặt chân trên đá và quật mạnh
con lươn xuống tảng đá kề bên rồi nằm lịm đi. Chàng nằm ngất không biết bao
lâu…
Trong khi đó dân làng đang chờ đợi tin vui của Y Rít tìm ra
nguồn nước. Nhưng ngày này qua tháng nọ, bóng dáng chàng vẫn biệt tăm trên cao
nguyên bao la và núi rừng hùng vĩ. Không thể chờ đợi lâu hơn nữa, các trai làng
chia nhau đi tìm chàng, bởi Y Rít đối với họ là cuộc sống, là niềm tin, là sức
mạn. Toán trai làng khăn gói tỏa đi các hướng và một ngày kia họ tìm thấy xác
chàng trên tảng đá, bên cạnh là xác con lươn khổng lồ trên dòng sông nước cứ vô
tình trôi. Họ bàng hoàng nhìn cảnh tượng bày ra trước mắt như thể đó không thể
là sự thật. Nỗi đau khổ chen lần niềm vui sướng trào lên. Y Rít quả cảm đã hiến
dâng thân xác cho Giàng để dành lấy sự sống cho cả bộ tộc.
Ngoài ra còn có dị bản khác như:
Sau khi Y Rít quật chết con lươn khổng lồ, chàng lịm đi không
biết bao nhiêu ngày tháng. Khi tỉnh dậy, chàng nghe văng vẳng bên tai: “Con hãy
vốc nước rửa mặt, hái ngọn rau rừng bên bờ sông nhai và uống nước sông này sẽ
mau chóng phục hồi sức lực. Con hãy mau làm đi để còn kịp về báo tin vui cho
dân làng. Y Rít mở mắt ra nhưng không thấy một ai ngoài mình chàng và xác con
lươn nằm bất động trên tảng đá kề bên. Chàng làm đúng theo lời dặn và vội vã
lên đường trở về buôn làng cũ báo tin chiến thắng, tìm ra nguồn nước cho cuộc sống
dân làng.
Dân làng trong bộ tộc mừng vui khôn xiết, liền mổ trâu bò,
mang ra những ché rượu ngon nhất, nổi lửa nhảy múa suốt mấy ngày liền trước khi
lên đường đến nơi định cư mới. Cả bộ tộc coi chàng như vị cứu tinh, như một
Giàng giáng thế để mang lại sự sống cho họ bởi sau này, những cánh đồng cỏ bao
la sẽ dần dần thay thế bằng những cánh đồng trồng bắp lúa tươi tốt. Khi cả bộ tộc
đến nơi thì xác con lươn không còn nữa, chỉ thấy vết lõm in hình bộ xương lươn
khổng lồ, tảng đá kế bên là bàn chân lõm sâu của Y Rít.
Một dị bản khác kể rằng, Y Rít là con của một vị tù trưởng,
18 tuổi chàng đã cao lớn, sức vóc hơn người; đặc biệt với sức mạnh phi thường của
mình, không những tiếng tăm vang xa tới các bộ tộc khác mà còn khống chế được tất
cả mọi loài thú dữ. Mỗi khi chàng đi săn, không một con thú nào có thể thoát được.
Ngoài sức mạnh và tài nghệ bẩm sinh, Y Rít còn là chàng trai thông minh, có
lòng nhân hậu, luôn yêu thương đùm bọc tất cả mọi người trong bộ tộc, khoan
dung đối với các kẻ thù hiếu chiến của các bộ tộc khác…Cuộc hành trình tìm ra
nguồn nước của Y Rít cũng được kể như trên, nhưng điểm khác biệt sau khi giết
chết con lươn, Y Rít đưa dân làng đến lập làng mới ven sông Ba rồi lặng lẽ bỏ
đi, chỉ để lại dấu chân rất to in trên tảng đá cạnh tảng đá hình bộ xương con
lươn khổng lồ.
Ngày nay, tảng đá in hình dấu chân Y Rít đã trở
thành biểu tượng linh thiêng của dân làng. Mỗi khi gặp những trắc trở tình
duyên, chuyện làm ăn… người dân buôn Chơ đều đến bến nước, đặt bàn tay lên bàn
chân khổng lồ của chàng Y Rít cầu nguyện và được giúp đỡ.
ĐẦM Ô LOAN PHÚ YÊN
Đầm Ô Loan thuộc địa phận huyện Tuy An, có diện tích toàn mặt
nước là 1.570ha, cách thành phố Tuy Hoà về phía bắc 20 km. Nước trong đầm thuộc
loại nước lợ (nước xà hai) do đầm ăn thông ra biển bằng cửa Lễ Thịnh, đưa nước
mặn vào đầm mỗi khi thuỷ triều lên; đầm cũng nhận nước ngọt từ sông Cái và các
con suối nhỏ chung quanh đổ vào. Do thế đất đồi là đất sỏi nhớt nên mùa mưa làm
xói lở, kéo theo lượng phù sa khá lớn bồi lắng lòng đầm. Do vậy, lòng đầm chỗ
sâu nhất khoảng 6 mét, chỗ cạn, thường là ven bờ, khoảng trên 1 mét. Riêng phía
trên cửa Lễ Thịnh thuộc địa phận An Hải mực nước sâu tới 10 mét.
Tuy vậy, khi đứng trên đỉnh đèo Quán Cau, du khách phóng tầm
nhìn bao quát khắp cả vùng thì đầm Ô Loan như một mặt hồ rộng yên ả được bao bọc
bởi những dãy đồi thấp thoai thoải với những ruộng mía xanh ngắt…Nhìn từ phía
nam, đầm Ô Loan giống như chim phượng hoàng đang xoải cánh, còn trên bản đồ Ô
Loan giống con thiên nga đang thong thả bay trên bầu trời cao xanh thăm thẳm.
Cũng từ đỉnh đèo Quán Cau nhìn xuống, khi tầm mắt chạm vào núi Từ
Bi có một doi đất chảy ra đầm Ô Loan, thì lại thấy đầm trông giống như con chim
hạc vừa giang đôi cánh rộng vừa vục đầu xuống đầm uống nước. Núi Từ Bi là một
nhánh nhỏ của đèo Quán Cau, có con suối cùng tên Từ Bi, bắt nguồn từ hòn Chồng.
Suối chảy ngoằn ngoèo qua các khe núi rồi đổ ra đầm, tạo nên cảnh quan thơ mộng.
Từ mạn Tây Bắc chạy ra tới An Ninh Đông là bãi cát vàng óng, có
rừng phi lao chạy dài theo men bờ nước, xưa kia là nơi trú ẩn của các loài chim
thú như le le, chàng bè, bồ nông, cò, diệc và nhiều nhất là vịt nước. Chúng
sinh sống thành từng đàn, bắt cá dưới lòng đầm.
Khi đứng ngắm mặt đầm buổi bình minh, du khách dễ có những tưởng
tượng, rằng các dãy đồi phía Đông-Nam như hình dáng con chim khổng lồ đang chuẩn
bị cất cánh bay lên trời cao lộng gió và nắng. Nhưng khi hoàng hôn buông xuống,
lại thấy cánh chim xoải rộng như đang xoè đậu bên cạnh mặt hồ lăn tăn gợn sóng…
Đây không phải là ảo giác mà chỉ vì quanh đầm có những ghềnh đá nhô xa ra ngoài
đầm tạo thành những mỏm mới thoạt nhìn có nhiều hình dạng khác nhau tuỳ theo
nhãn quan và tâm trạng mỗi người trong từng thời điểm khác nhau: như mỏm Cây
Sanh có lúc như cánh chim vươn cao, lúc nhìn như tà áo lụa xanh bay lất phất
trong nắng sớm. Có lẽ chính bởi thế núi đồi, vị trí của đầm nên nhiều tao nhân
mặc khách đã không tiếc lời ngợi ca qua nhạc họa thơ văn, mà tiêu biểu là nhà
thơ Xuân Diệu khi đứng nhìn mặt đầm đã thốt lên: “Mặt đầm, đôi cánh chim Loan mở”.
Còn trước đó khá lâu, thi sĩ Tản Đà đã ghé ngang qua đây và thốt lên rằng: “Lấy
chi vui với thu tàn; Phú Câu cước cá, Ô Loan miếng hàu”. Dung dị và mộc mạc
hơn, trong dân gian còn lưu truyền câu ca dao đánh dấu một giai đoạn lịch sử
hào hùng của nhân dân Phú Yên và riêng của Lê Thành Phương, người anh hùng của
quê hương đã ngẩng cao đầu trước lưỡi gươm kẻ thù:
“Ô Loan nước lặng như tờ
Thương người chiến sĩ dựng cờ Cần Vương
Trải bao gối đất nằm sương
Một lòng vì nước nêu gương anh hùng.”
Trong đầm còn có những rạng ngầm dưới mặt nước, là nơi để những
con hàu bám vào sinh sống, một loại hải sản ngon, mát bổ. Đầm Ô Loan có nhiều hải
sản sinh sống như tôm, cá, ghẹ, cua huỳnh đế, điệp, cá mú… nhưng ngon và nổi tiếng
nhất vẫn là con sò huyết Ô Loan cơm dày, thịt ngọt và rất thơm, thơm hơn sò huyết
các nơi khác, được du khách trong và ngoài nước đánh giá rất cao. Trước đây, sò
huyết Ô Loan không chỉ có mặt khắp nơi trong nước mà còn xuất khẩu sang
Singapore, Thái Lan…
Hiện nay, đầm Ô Loan được Bộ VHTT xếp vào di tích danh thắng cấp
quốc gia. Hàng năm, vào ngày mùng 7 tháng Giêng âm lịch, nhân dân sống quanh đầm
tổ chức lễ hội đua ghe truyền thống, thu hút nhiều đội ghe đua ở các địa phương
khác đến tham gia. Trước đó, ngư dân cũng tổ chức cúng thần, cầu ngư, hò bá trạo…Trong
dân gian có nhiều huyền thoại về tên gọi đầm Ô Loan, nhưng gần gũi nhất là câu
chuyện về nàng Loan và chim Ô thước đã được truyền tụng từ đời này sang đời
khác. Theo lời kể của ông Cao Phi Yến một nhân sĩ và là nhà nghiên cứu văn hoá
dân gian kể lại rằng: Ngày xưa, có nàng tiên trên trời rất xinh đẹp tên nàng
Loan, nhưng tính tình hay tinh nghịch. Một ngày nọ nàng Loan mượn con chim Ô
thước bay xuống trần gian dạo chơi khắp nơi mà không hề để ý chim đã mỏi cánh,
đói và khát, nên khi ngang qua Tuy An, chim không còn đủ sức để bay, nên hạ
cánh xuống dãy núi Từ Bi, sau này mượn tên chim Ô thước của nàng Loan ghép
chung với tên nàng, gọi tắt là Ô Loan để đặt tên cho đầm.
Dị bản: Cũng y với câu chuyện này, nhưng chi tiết được thêm
thắt nên câu chuyện có một vài thay đổi: Nàng Loan vốn là tiên nữ trên trời,
nàng thích ngao du sơn thuỷ để nhìn ngắm cảnh đẹp sông nước, núi non. Một ngày
kia, nàng Loan cỡi con chim quạ bay ngang qua đất Phú Yên, thấy trên mỏm Cây
Sanh có một chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú đang cuốc đất khẩn hoang trồng
cây lương thực. Nàng cho quạ hạ cánh xuống gần đó và núp trong bụi cây quan
sát. Càng nhìn, lòng nàng càng vương vấn; càng ngắm nàng càng thấy mình không
thể rời xa chàng được nữa. Thế là nàng Loan quyết định ở lại cõi hồng trần, xe
duyên kết tóc với chàng thanh niên nọ, ra sức khai phá đất đai, lập nên đất Tuy
An và sanh con đẻ cái lập thành làng mạc trù phú.
Những truyền thuyết, huyền thoại về một vùng đất
sẽ làm tăng thêm sức hấp dẫn và vẻ đẹp của vùng đất ấy, cho nên quanh đầm Ô
Loan, những truyền thuyết không chỉ dừng lại ở đây, mà con đem cả sự tích Cao
Biền, một sự tích có vẻ hoang đường nhưng được người đân địa phương nhiều thế hệ
kế tiếp nhau mượn cớ tô vẽ nhằm góp phần điểm xuyết cho Ô Loan thêm mỹ miều thơ
mộng hơn
NHÀ THỜ MẰNG LĂNG
Nằm cách thành phố Tuy Hòa 35km về phía Bắc, nhà thờ Mằng Lăng là
một trong những nhà thờ cổ, được xây dựng vào năm 1892 tại xã An Thạch, huyện
Tuy An, tỉnh Phú Yên. Nơi đây lưu giữ cuốn sách chữ quốc ngữ đầu tiên của Việt
Nam “Phép giảng tám ngày” của linh mục Alexandre de Rhodes in năm 1651 tại
Roma, Italia.
Hướng dẫn đường đi đến nhà thờ Mằng Lăng
Nhà Thờ Mằng Lăng nằm ở gần sông Cái, cách thành
phố Tuy Hòa khoảng 40 phút lái xe. Nếu bạn di chuyển đến nhà thờ bằng phương tiện
cá nhân, bạn có thể đi theo hướng dẫn sau đây:
Từ đường Hùng Vương (thành phố Tuy Hòa), bạn lái xe về hướng quốc
lộ 1A và chạy thẳng cho đến khi gặp ngã ba QL1A và đường Cầu Lò Gốm thì rẽ phải
vào đường Cầu Lò Gốm, lúc này bạn sẽ thấy bảng chỉ dẫn đến nhà thờ, chỉ cần đi
theo là tới. Đoạn đường này, bạn sẽ đi ngang qua trường mẫu giáo An Thạnh và
quán chè Bà Sau, bạn lưu ý 2 địa điểm này để đi tiện cho việc hỏi đường hoặc dò
đường nhé!
Nhà thờ Mằng Lăng được xây dựng trong khuôn viên 5.000 m2, theo lối
kiến trúc Gothic. Trên đỉnh của nhà thờ là hai tháp chuông hai bên, ở giữa là
thập tự giá, biểu tượng của thánh đường. Mặt tiền là những lối vào hình mái
vòm, các cửa sổ hình búp măng xung quanh phía trên tường bao bọc nhà thờ. Không
chỉ mang phong cách kiến trúc xuất xứ châu Âu, nhà thờ Mằng Lăng còn có những họa
tiết chạm trổ tinh xảo, toát lên chất mộc mạc văn hóa Việt trên những cánh cửa
chính bằng gỗ.
Khuôn viên nhà thờ thoáng mát, rợp cây xanh, trước sân có một khu
hầm nhỏ, được xây dựng khá kỳ công trong lòng một quả đồi giả. Bên trong hầm
lưu giữ cuốn sách "Phép giảng tám ngày" và nhiều bức điêu khắc chạm
trổ kể lại những câu chuyện về Chân Phước Anre Phú Yên(1625-1644), là một trong
những vị quan thầy của giáo lý viên và giới trẻ Công giáo thế giới.
“Phép giảng 8 ngày” là tên của cuốn sách Quốc ngữ đầu tiên với 319 trang, mỗi
trang in thành 2 cột, được in song ngữ bằng tiếng Latin (bên trái) và chữ Quốc
ngữ sơ khai (bên phải), do tác giả Alexandre de Rhodes soạn. Trên cuốn
sách vẫn còn rất rõ dòng chữ ghi tên tác giả là Alexandre de Rhodes. Trải qua
thời gian và cải tiến của nhiều thế hệ người dùng, chữ Quốc ngữ đã tồn tại và
phát triển đến ngày nay và trở thành chữ Quốc ngữ chính thức của dân tộc Việt
Nam.
Nhà thờ Mằng Lăng là một
trong những nhà thờ cổ, được xây dựng vào năm 1892 tại xã An Thạch, huyện Tuy
An, tỉnh Phú Yên
Nhà thờ sơn màu xanh xám
giản dị
Những khung cửa hình búp
măng kiểu Gothic
Bên trong giáo đường rộng
lớn của nhà thờ Mằng Lăng
Trước sân còn có một khu
hầm nhỏ, được xây dựng khá kỳ công trong lòng một quả đồi giả
Không gian huyền bí bên
trong hầm
Dưới hầm có một nơi dành
cho giáo dân cầu nguyện
Trên bức tường hầm khắc
hình ảnh ghi lại Thầy giảng Anrê Phú Yên
được Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II tuyên phong Á thánh Anre Phú Yên năm 2000
Các hình ảnh lưu niệm về Á thánh Anrê Phú Yên
Những hình ảnh về lễ phong Chân Phước Á thánh Anrê Phú Yên
năm 2000
Tóc Á thánh Anrê Phú Yên được lưu giữ trong hầm
Cuốn sách chữ quốc ngữ đầu tiên của linh mục Alexandre de
Rhodes được lưu giữ tại nhà thờ
So với nhiều nhà thờ cổ nổi tiếng khác ở Việt Nam, nhà thờ Mằng
Lăng không lớn và thiết kế bên trong cũng đơn giản hơn, nhưng sự cầu kỳ trong
trang trí mỹ thuật là yếu tố ít nhà thờ nào khác sánh bằng. Đối với người Công
giáo Việt Nam, nhà thờ Mằng Lăng là nơi hành hương vào dịp lễ kỷ niệm Chân phước
Anrê Phú Yên và thánh lễ cầu cho giới trẻ Công giáo.
Theo các bậc cao niên trong vùng, tên gọi Mằng Lăng là lấy từ tên
của một loài cây trồng rất nhiều ở vùng này cách đây hàng thế kỷ. Trong nhà thờ
ngày nay còn giữ một bàn gỗ mặt tròn làm bằng gỗ mằng lăng, có đường kính 1,7m.
Tồn tại gần 130 năm, nhà thờ Mằng Lằng như một chứng nhân lịch sử,
một công trình kiến trúc đặc sắc nằm trên mảnh đất “Hoa vàng trên cỏ xanh” nổi
tiếng của Phú Yên với những bãi biển trong xanh và cát trắng mịn màng. Nhà thờ
Mằng Lăng thực sự là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước trong
hành trình du lịch Phú Yên./.
Nguồn: và ảnh: Đặng Kim Phương
https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/tin-tuc/mang-lang-nha-tho-luu-giu-cuon-sach-chu-quoc-ngu-dau-tien-cua-viet-nam-230875.html
Những điểm ăn uống ở gần nhà thờ Mằng Lăng
Nếu đã đến nhà thờ Mằng Lăng tham quan thì hãy lưu lại một số quán
ăn nổi tiếng sau đây nhé bạn:
Quảng Đức Xưa
Địa chỉ: 91 Quốc Lộ 1A, Huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên
Quảng Đức Xưa có không gian yên tĩnh, tràn đầy cây xanh và mang vẻ
đẹp cổ kính. Ở đây chuyên phục vụ các thức uống thơm ngon và những món ăn đặc sản
Phú Yên thơm ngon. Đặc biệt, Quảng Đức Xưa còn trưng bày những chiếc máy may
xưa, cát-xét cổ, cối đá thời xưa,...
Lục Thạch - Gà
và Hải Sản
Địa chỉ: Thôn Phú Hạnh, Huyện Tuy An, Phú Yên
Quán ăn nổi tiếng với những món làm từ mực tươi ngon, đặc biệt có
món mực xào chua ngọt thơm lừng khó lòng dừng đũa. Ngoài ra, quán ăn còn có nhiều
món ốc hợp vị, giá lại phải chăng. Nhiều du khách chia sẻ, một bàn ăn thịnh soạn
bao gồm gà rang sả ớt, lòng gà xào, trái cây và một ấm trà ngon chỉ tốn khoảng
200.000 VNĐ (đây là giá tham khảo, giá cả sẽ thay đổi theo từng thời điểm).
Bánh bèo Cầu
Lò Gốm
Địa chỉ: Cầu Lò Gốm, Xã An Thạch, Huyện Tuy An, Phú Yên
Quán bánh nằm ngay dưới chân cầu Lò Gốm nên rất dễ tìm. Bánh bèo ở
quán dẻo, mềm, không dày, ăn không cũng cực kỳ ngon. Khi ăn, bạn sẽ phết thêm một
lớp dầu hẹ, rải tôm khô và đậu xanh lên, ăn cực kì cuốn. À, món ngon này sẽ được
chấm với nước mắm có hương vị chua ngọt cay rất cuốn hút.
Chè Bà Sáu
Địa chỉ: Xã An Thạch, Huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên
Quán chè Bà Sáu nằm gần nhà thờ Mằng Lăng chuyên bán những món chè
dung dị với vị ngọt vừa phải, ăn vào một muỗng là thanh mát bất chấp ngày nắng.
Giá chè ở đây rất phải chăng chỉ từ 5.000 - 10.000VNĐ/ly (giá sẽ thay đổi tùy
vào thời điểm).
Cháo lòng gần
cầu Ngân Sơn
Địa chỉ: Thị Trấn Chí Thạnh, Huyện Tuy An, Phú Yên
Quán cháo lòng gần cầu Ngân Sơn có lẽ món ăn sáng quen thuộc của
người dân ở địa phương này. Cháo được nấu nhừ, có hương vị đậm đà được ăn cùng
với lòng heo tươi ngon hấp dẫn. Để món ăn thêm phần cuốn hút, bạn có thể cho
thêm nước mắm ớt, bẻ vụn một chút bánh tráng thêm vào cháo giòn giòn.
HUYỆN SÔNG CẦU PHÚ YÊN:
Là một trong hai huyện địa đầu phía bắc của tỉnh
Phú Yên, phía bắc giáp huyện Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn của tỉnh Bình Định,
đông giáp biển đông, tây nam giáp huyện Đồng Xuân, nam giáp huyện Tuy An. Huyện
Sông Cầu có diện tích là 187, 3km2 trong đó đa số là đất nông nghiệp và đất
hoang.
Địa hình chủ yếu là đồi núi, vài cánh đồng lúa nằm giữa các ngọn
núi không cao. Bán đảo Xuân Hải (gồm xã Xuân Hải và Xuân Hòa), đầm Cù Mông, vịnh
Xuân Đài. Gồm 1 thị trấn và 9 xã là thị trấn Sông Cầu, xã Xuân Lộc, Xuân Bình,
Xuân Hải, Xuân Hòa, Xuân Cảnh, Xuân Phương, Xuân Thịnh, Xuân Thọ 1, Xuân Thọ 2.
Huyện Sông Cầu được tách ra từ huyện Đồng Xuân, ngay khi Phú
Yên được tách ra từ Phú Khánh. Các tuyến đường chạy qua huyện Sông Cầu là QL1A
nối với huyện Tuy Phước (Bình Định) và huyện Tuy An. QL1D nối với thành phố Quy
Nhơn ( Bình Định).
Vịnh Xuân Đài
Nằm cách Tp. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên khoảng 55km, vịnh Xuân Đài là
một vịnh nhỏ
nằm dưới chân dốc Găng – ranh giới giữa thị xã Sông Cầu và huyện
Tuy An, giáp
với nhau bởi hai xã An Dân <Tuy An> ở phía Bắc và Xuân Thọ
<Sông Cầu> ở phía
Nam, vịnh có diện tích mặt nước 13.045ha, được tạo thành nhờ dãy
núi Cổ Ngựa
chạy dài ra biển chừng 15km tạo nên bán đảo Xuân Thịnh bao bọc lấy
vịnh Xuân
Đài và đầm Cù Mông trông giống như hình cái đầu con Kì Lân. Khi đi
đường bộ lên
đến đỉnh dốc Găng và nằm trên QL.1A, ta có thể nhìn thấy toàn cảnh
của vịnh là
rừng dừa ôm sát bờ vịnh và vòng cung núi men theo khu vực vịnh.
Từ phía Nam đi ra, bắt đầu tại Chí Thạnh đến gần dốc Vườn Xoài
chừng 3km có
con đường đất rẽ trái đi về hướng tây bắc khoảng chừng 1km thì đến
dốc Xuân
Đài. Dốc ngược theo triền núi cao khoảng 500m. Leo lên dốc Xuân
Đài như thể ta
bước từng cấp một lên đỉnh Yen Tử, hai bên có nhiều cây cổ thụ với
tán lá che phủ
cả con đường đi vào một vùng rộng lớn. Đỉnh dốc phía Bắc có vườn
Cam nổi tiếng
thơm ngon, đã từng là vật phẩm tiến vua cùng với Xoài Đá Trắng.
Xuống khỏi dốc,
đi ngược về phía Nam gần 7km thì tới ngã ba Triều Sơn – nơi trước
kia triều đình
nhà Nguyễn có đặt hai khẩu thần công để bảo vệ vịnh Xuân Đài và
cho cả khu vực
này. Dốc Xuâyn Đài án ngữ trên con đường từ Bắc vào Nam, cho nên
muốn ra Bình
Định hay vào Phú Yên đều phải leo lên dốc Xuân Đài mà đi, không có
con đường
nào khác. Dốc cao, hiểm trở, mùa mưa thì trơn trợt do đất sỏi thấm
ướt, mùa nắng
nóng leo lên được tới đỉnh dốc cổ họng khô rốc, mà trên đỉnh thì
không có giếng
nước nào để uống đỡ khát,…
Giá trị văn hóa – lịch sử của vịnh Xuân Đài :
Ngược dòng lịch sử, vịnh Xuân Đài trưoc đây có tên là Bà Đài, một
thời từng là
trung tâm hành chính của tỉnh Phú Yên xưa. Theo sử liệu, “… Vào
năm 1629, thủ
phủ của tỉnh Phú Yên là thành Hội Phú được xây dựng tại cửa Tiên
Châu. Tòa
thành này tồn tại cho đến năm 1836 thì chuyển đến thành An Thổ
cách tòa thành
cũ khoảng 2km về phía Tây. Cuối thế kỉ 19, sau khi thiết lập nền
bảo hộ lên miền
đất Trung kì, Pháp đã đặt tòa Công sứ ngay tại Vũng Lắm vào năm
1887, đồng thời
cũng đặt Sở Thương chánh để kiểm soát việc buôn bán tại đây”
<Tư liệu Bảo tàng
tỉnh Phú Yên>.
Vũng Lắm nằm trong vịnh Xuân Đài cũng từng là thương cảng bậc nhất
của Phú
Yên trong quá khứ, là cửa ngõ thông thương giữa Phú Yên với bên
ngoài. Tại Vũng
Lắm có cộng đồng người Hoa đến định cư vào khoảng cuối thế kỉ 18 –
đầu thế kỉ
19. Công việc doanh thương của họ đã góp phần làm cho Vũng Lắm trở
nên sầm
uất.
Vịnh Xuân Đài là một địa danh gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử
liên quan đến vùng
đất Phú Yên cũng như của cả nước. Trong thời kì giao tranh giữa
nhà Tây Sơn với
nhà Nguyễn, vịnh Xuân Đài đã thành chiến trường với nhiều trận
thủy chiến lớn mà
một trong những lần quân chúa Nguyễn hành quân đến đây còn được
lưu lại trong
thơ cổ :
Duyệt nguyệt chu sư bạc tiểu thành, Bà Đài ngạn
thượng thả hưu binh Dịch
nghĩa :
Trải tháng chu sư đậu ở tiểu thành, lên bờ biển Bà Đài để tạm nghỉ
binh.
Vịnh Xuân Đài cũng là nơi diễn ra hoạt động ngoại giao đầu tiên
giữa VN và Chính
phủ Hoa Kì. “Năm1832, phái đoàn ngoại giao Hoa Kì do Edmund Robert
và George
Thompson mang theo thư của Tổng thống Andrew Jackson đến Vũng Lắm.
Vua
Minh Mạng cử viên Ngoại lang Nguyễn Tri Phương và Tư vụ Lý Văn
Phức đến cùng
quan tỉnh Phú Yên lên thuyền thiết tiệc và hỏi ý họ đến đây để làm
gì. Phái đoàn
Hoa Kì cho biết họ đến đây để xin giao hảo thông thương” <Tư
liệu Bảo tàng Phú
Yên>.
Tháng 04-1945, tàu hải quân của quân đội Nhật hoàng tiến vào vịnh
Xuân Đài
đánh chiếm để làm bàn đạp tiến sâu vào đất liền, nhưng đã bị phi
cơ Đồng minh
bắn chìm giữa vịnh. Thân tàu chìm khuất dưới làn nước sâu, chỉ còn
nhô lên cột cờ
tàu và đài quan sát. Cho đến những năm cuối thập niên 80 đầu 90
của thế kỉ trước
vẫn còn các dấu tích này trong vịnh Xuân Đài. Nhưng tiếc thay sau
thời gian đó,
những toán thợ lặn đã đến tháo gỡ toàn bộ thân tàu để lấy sắt thép
bán phế liệu.
Vịnh Xuân Đài – giá trị du lịch :
Từ một điểm có vị trí chiến lược trong lịch sử
của vùng nhưng đã bị lãng quên, giờ
đây vịnh Xuân Đài là một trong những vịnh được các chuyên gia đánh
giá là có
tiềm năng du lịch lớn nhất nhì miền Trung với cảnh sắc hữu tình,
có nhiều đảo, bãi
tắm rất đẹp và hoang sơ. Nơi đây đang được qui hoạch để phát triển
các loại hình
du lịch nghỉ dưỡng, du lịch thể thao nước, du lịch sinh thái biển.
Sở hữu nhiều vũng biển và bãi tắm đẹp như Vũng La, Vũng Sứ, Vũng
Chào,… và
nhiều đảo, bán đảo, như cù lao Ông Xá, hòn Nhất Tự Sơn, mũi Đá
Mài, mũi Tai
Mã,… vịnh Xuân Đài hợp cùng các danh thắng dọc bờ biển Phú Yên như
gành Đá
Đĩa, đầm Ô Loan, đầm Cù Mông,… tạo nên quần thể phong cảnh – di
tích độc đáo
lôi cuốn bước chân du khách mỗi lần đến “xứ nẫu” của Phú Yên.
Toàn cảnh vịnh Xuân Đài rất nen thơ. Chẳng vì thế mà Tam Thai đã
tức cảnh đề
thơ vịnh phong cảnh Xuân Đài <vào năm 1948> như sau :
Xuân Đài bốn mặt núi sông liền
Thắng cảnh nước non để dấu truyền
Thánh đế đền xưa nêu dấu tích
Tiên Châu chốn cũ hội thương thuyền
Hai sông giáp một triều lên xuống
Ba mặt gành đôi đá ngửa nghiêng
Trùng điệp dương xanh lồng cát trắng Rừng
cây nhân tạo giúp thiên nhiên.
Với ý nghĩa lịch sử lớn lao, vịnh Xuân Đài được Bộ Văn hóa Thể
thao và Du lịch xếp
hạng Di tích danh lam thắng cảnh cấp quốc gia tại quyết định số
177/ QĐBVHTTDL
ngày 20-01-2011
Cá Ngựa Sông Cầu
Có cái đầu giống
như con Ngựa và sống dưới biển nên còn gọi là Hải Mã, bộ vây
của nó rất cứng, khi di chuyển
không thể uốn lượn giống như những loài khác.
Vùng nước lợ là môi trường rất
thuận lợi để Cá Ngựa sinh sống, ở VN có rất nhiều
nơi có Cá Ngựa, nhưng nhiều
nhất phải kể đến đó là Nha Trang – Khánh Hòa và
Sông Cầu – Phú Yên, người ta
đánh giá rằng Cá Ngựa Sông Cầu còn tốt hơn cả Cá
Ngựa ở Nha Trang, dĩ nhiên
khi mua thì phải mua Cá Ngựa còn sống và đầy đủ cả
2 mắt, đem về ngâm rượu mới tốt.
Phụ nữ ở những vùng nước lợ,
khi mang thai thường lấy một lọ nước, trong đó có 2
con Cá Ngựa, để dưới giường nằm,
hoặc lấy Cá Ngựa đã chết, sau đó tán ra thành
bột và cầm trên tay, theo
quan niệm Duy Tâm, họ làm như vậy với mục đích mong
muốn “mẹ tròn con vuông”, vì
tỉ lệ sinh nở của loài Cá Ngựa gần như thành công
100% <con đực mang thai
dùm cho con cái trong thời gian sinh nở>.
Về công dụng, loài Cá Ngựa có
rất nhiều công dụng, theo Đỗ Tất Lợi – giáo sư đạt
giải thưởng Hồ Chí Minh về Y
học, đã viết một quyển sách rất hay với tựa đề
“Thuốc và cây thuốc VN”, khoảng
6.000 trang, trong đó có một phần nhỏ nói về
công dụng của Cá Ngựa như bổ
dương, người Trung Quốc sử dụng Cá Ngựa để
điều chế thuốc chữa trị bệnh
liệt dương, theo kinh nghiệm dân gian nên người miền
Trung đã sử dụng Cá Ngựa rất
nhiều, cụ thể là ngâm Cá Ngựa, có nhiều cách
ngâm, nhưng yêu cầu đầu tiên
là Cá Ngựa phải còn sống, bỏ vào bình rượu khoảng
250ml, ngâm từ 5 – 10 ngày, nếu
như ngày nắng thì ngâm 5 ngày, còn ngày mưa
thì ngâm 10 ngày, sau đó mỗi
ngày uống đều đặn khoảng 2, 3 chung trong vòng từ
2 – 3 tháng, có tác dụng
tráng dương rất tốt. Ngoài ra, Cá Ngựa cũng có thể sấy
khô, đem tán bột rồi pha với
rượu và uống, nhưng cách này không tốt bằng cách
ngâm Cá Ngựa còn sống, cũng
có người ngâm Cá Ngựa với Bìm Bịp hay Tắc Kè,
công dụng cũng không thua gì
rượu Amacông trên Tây Nguyên, đặc biệt là Cá
Ngựa ngâm với nấm Nhục Thung
Dung, còn gọi là nấm Mã Tinh, người ta lên miền
núi, bắt những con ngựa thật
khỏe đem về tẩm bổ cho nó như Đông Trùng Hạ
Thảo, sâm Nhung,… đến giai đoạn
xung mãn, người ta đem con ngựa cái để kế bên,
lấy một tấm màn ngăn hai con
lại và không cho chúng giao hợp, con ngựa đực
ngửi thấy mùi con ngựa cái
nhưng lại không đến được, phía dưới của quý con ngựa
người ta để một đống rơm đã
tưới nước, tinh dịch của con ngựa đó thấm vào đám
rơm và mọc lên một loại nấm,
nấm đó gọi là nấm Mã Tinh <ở Sapa bán rất nhiều>.
Chuyên đề
CÁ NGỰA
Cá ngựa là một loài sinh vật thật
độc đáo của thế giới đại dương. Đầu và cổ chúng có hình dạng giống như
loài ngựa nên chúng được gọi là “cá ngựa” hay “hải mã”. Chúng còn có khả năng đổi
màu cơ thể theo môi trường xung quanh, do đó những chú cá ngựa có màu sắc
vô cùng đa dạng. Hãy cùng tìm hiểu những bí mật thú vị về loài sinh vật
này nhé!
1. Bí mật về cá ngựa
Cơ thể cá ngựa thật đặc biệt!
Bạn có biết cá ngựa không hề có vảy
như chúng ta tưởng tượng, mà có xương sống ở bên ngoài cơ thể? Chúng cũng
không có dạ dày và răng. Chính vì vậy, thức ăn đi vào hệ tiêu hóa của chúng rồi
nhanh chóng đi ra. Điều này lí giải vì sao cá ngựa ăn nhiều và ăn liên tục.
Cá ngựa dùng mõm của nó hút sinh vật nhỏ và sinh vật phù du ở gần mình. Một
số loài cá ngựa rất “phàm ăn”, chúng có thể ăn tới 3000 con tôm biển nhỏ mỗi
ngày.
Cá ngựa có thị lực rất tốt. Mắt
chúng có thể hoạt động độc lập với nhau, chẳng hạn một mắt nhìn đằng trước
và một mắt nhìn đằng sau. Điều này rất hữu ích trong việc tìm kiếm thức ăn xung
quanh cũng như quan sát các mối nguy hiểm.
Cá ngựa bơi khá tệ. Chúng di chuyển
bằng cách đập một chiếc vây nhỏ trên lưng liên tục với tốc độ khoảng 35
cái/giây. Vây ngực nhỏ ở phía sau đầu có vai trò như bánh lái cho cá ngựa.
Chiếc đuôi của cá ngựa cũng rất đặc biệt. Nó có khả năng quấn quanh thực vật nhỏ
để giữ cho cá ngựa không bị nước cuốn.
Cá ngựa sinh trưởng như thế
nào?
Không giống các loại cá khác, cá
ngựa là một loài động vật rất “chung thủy”. Chúng chỉ có một bạn tình duy
nhất trọn đời, và cá ngựa đực sẽ chăm sóc cá ngựa con chưa nở.
Cá ngựa đực có chiếc túi trên bụng giống như chuột túi (kangaroo)! Khi giao phối,
con cái đẻ trứng của mình vào túi của con đực, và con đực sẽ phóng tinh
trùng và thụ tinh trứng trong cơ thể của mình. Con đực giữ túi trứng này
cho đến khi trứng nở, con non phát triển đầy đủ rồi mới phóng những con non
ra ngoài môi trường. Quá trình này kéo dài khoảng 45 ngày.
Khi cá ngựa con được sinh ra,
chúng chỉ bé bằng một viên kẹo dẻo. Chúng ngay lập tức tìm những chú cá ngựa
khác, bám đuôi với nhau và bơi thành nhóm nhỏ. Khác với chuột túi, cá ngựa non
một khi được thả ra môi trường, sẽ không bao giờ quay lại chiếc túi của cá
ngựa bố nữa. Chỉ có 1/1000 cá ngựa con sống sót và trưởng thành.
Cá ngựa sống được khoảng từ 1 đến
5 năm, tùy thuộc vào từng giống cá ngựa.
Cá ngựa sống ở đâu?
Cá ngựa có thể được tìm thấy ở hầu
hết các vùng biển nhiệt đới và ôn đới trên thế giới. Tuy nhiên cá ngựa
sinh sống nhiều nhất ở khu vực biển Đông Nam Á, Nam Phi và kênh đào Panama, đặc
biệt ở các thảm cỏ biển, các rạn san hô, và rừng ngập mặn. Hiện nay trên
thế giới đã tìm thấy 54 loài cá ngựa.
Riêng ở Việt Nam có bốn loài cá
ngựa phân bố trên khắp các vùng biển từ Bắc tới Nam.
- Cá
ngựa gai: ở vịnh Bắc Bộ, Đà Nẵng đến Bà Rịa- Vũng Tàu, Kiên Giang.
- Cá
ngựa nhật: ở vịnh Bắc Bộ, Khánh Hòa, Bình Thuận.
- Cá
ngựa đen: ở vịnh Bắc Bộ, Nam Trung Bộ (từ Đà Nẵng đến Bà Rịa- Vũng Tàu),
Kiên Giang, Phú Quốc.
- Cá
ngựa chấm: ở vịnh Bắc Bộ, Nam Trung Bộ (từ Đà Nẵng đến Bình Thuận).
2. Cá ngựa đang ngày một giảm
đi!
Hiện nay, cá ngựa được xếp vào
danh sách động vật sắp nguy cấp trong Sách đỏ thế giới và nghiêm cấm việc
buôn bán, trao đổi cá ngựa theo Công ước Quốc tế vè buôn bán các loài động thực
vật hoang dã nguy cấp (CITES).[3] Ở Việt Nam, người ta cũng quan sát
thấy lượng cá ngựa giảm đi đáng kể.
3. Tại sao vậy nhỉ?
Cá ngựa bị săn bắt và trao đổi
mua bán ở nhiều nơi. Nhiều phương thuốc truyền thống từ Trung Quốc và Việt
Nam sử dụng cá ngựa để chữa các bệnh xương khớp và sinh lí. Cá ngựa còn bị săn
lùng và đưa vào nuôi trong các bể cá cảnh. Tại đây, chúng chỉ có thể tồn tại
khoảng 6 tuần rồi sau đó bị chết rất nhanh chón
Bên cạnh đó, so với các loài sinh
vật biển khác, cá ngựa còn rất dễ bị tổn thương bởi các chất gây ô nhiễm
hay bị gián đoạn nguồn thức ăn. Chính khả năng bơi lội giới hạn của cá ngựa khiến
cho chúng không có khả ăng thoát ra khỏi khu vực ô nhiễm một cách nhanh
chóng.[5]
Cá ngựa cũng đang mất dần môi trường
sống. Rạn san hô, thảm cỏ biển và đầm lầy ngập mặn là những nơi mà cá ngựa
thường trú ngụ. Những môi trường sống này đang dần bị phá hủy bởi ô nhiễm, các
hoạt động khai phá và biến đổi khí hậu. Các quần thể cá ngựa dễ dàng bị
phân mảnh và đối mặt với nguy cơ biến mất.
NGUỒN GỐC RA ĐỜI CỦA LỄ NGHINH ÔNG
Từ lâu, hoạt động
thờ cúng Cá Ông đã trở thành một nét độc đáo trong văn hóa của người dân vùng
biển nói chung và trong đó Lễ Nghinh Ông tại Phú Yên lại được cho là một trong
những nghi thức ấn tượng nhất. Tương truyền rằng Cá Ông là tên gọi tôn kính mà
ngư dân vùng biển đặt cho cá voi – loài cá đã giúp đỡ ngư dân rất nhiều trong
đánh bắt ngoài khơi xa và cả trên đất liền. Nhằm thể hiện lòng biết ơn cũng như
cầu mong những chuyến đi biển lặng gió hòa, quốc thái an dân, ngư dân ra khơi
may mắn, người dân vùng đất trù phú này hằng năm tổ chức Lễ hội Nghinh Ông và
đưa lễ hội này trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống, mang ý nghĩa
cao về nghề nghiệp, đồng thời cũng là dịp để giải trí.
Nghi thức rước
Cá Ông trên biển
Đôi nét về các hoạt động tại lễ
hội
Lễ cầu ngư được tổ chức vào tháng
03 đến tháng 08 Âm lịch, thời điểm mà tiết trời khô ráo, sóng yên biển lặng, là
một dịp hết sức thích hợp để tổ chức các hoạt động ngoài trời. Nằm trong khuôn
khổ của Lễ hội Tôm hùm Sông Cầu, Lễ Nghinh Ông diễn ra với một số hoạt động sau
đây: Mở đầu buổi lễ sẽ là nghi thức Nghinh Ông, hay còn gọi là cúng và rước Cá
Ông về lăng, hòa chung cùng không khí trang nghiêm của nghi thức sẽ là những
giai điệu mang âm hưởng văn hóa dân gian, truyền thống của địa phương. Đặc biệt,
lễ hội lần này có quy mô lớn với sự tham gia của Ban Lãnh đạo Trung ương, Ban
Lãnh đạo tỉnh Phú Yên cùng các lãnh đạo sở, ban, ngành, đoàn thể, và đại diện
lãnh đạo thành phố Tuy Hòa, cùng lãnh đạo các doanh nghiệp, phóng viên cơ quan
báo chí. Đến với Lễ Nghinh Ông lần này, du khách còn được trải nghiệm các hoạt
động vui chơi, giải trí mang đậm nét dân gian của người dân địa phương có thể kể
đến: hát bội, đua thuyền, kéo co, đua thúng chai, bóng chuyền,…
Cuộc thi đua thúng chai tại thôn Hòa Lợi, thị xã Sông Cầu
Giới thiệu Lăng Ông và nghi thức
đón bằng công nhận Di tích Lịch sử – Văn hoá
Phú Yên hiện có 41 Lăng Ông trải
dài từ cực Bắc đến cực Nam của tỉnh, đây cũng chính là nơi người dân tổ chức Lễ
hội cầu ngư hằng năm. Tất cả Lăng Ông đều là công trình mang tính lịch sử với
thiết kế ngôi đình, họa tiết chạm trổ nghệ thuật, tỉ mỉ, đáp ứng nhu cầu bảo
lưu các giá trị văn hóa truyền thống. Chính vì vậy, cũng trong buổi lễ này, Bộ
trưởng Bộ văn hóa, thể thao và du lịch sẽ thực hiện nghi thức chứng nhận Di
tích Lịch sử – Văn hoá cấp tỉnh, thành phố đối với mộ Cá Ông Lăng Tân Thạnh.
Với mong muốn trời yên biển lặng,
lưới nặng khoang đầy, cuộc sống ấm no, hạnh phúc, Lễ hội Nghinh Ông ngày nay đã
trở thành một nét văn hóa đặc trưng của người dân vùng biển Phú Yên khi gắn liền
với đời sống tâm linh, và thỏa mãn nhu cầu văn hóa của cộng đồng, bảo lưu các
giá trị văn hóa dân tộc, trao quyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, hướng về cội
nguồn và tưởng nhớ đến những người có công khai khẩn vùng đất nhắm phát triển
kinh tế thông qua thu hút du khách. Vì vậy, du khách đừng quên ghé Lễ hội Tôm
hùm Sông Cầu sắp đến để vui chơi và trải nghiệm trọn vẹn lễ hội văn hóa đặc sắc
trên!
TÔM HÙM
Tôm hùm nổi danh như một món quà
quý hiếm giữa lòng đại dương sâu thẳm dành cho những thực khách sành ăn bởi nó
mang đến hương vị ẩm thực đặc biệt và sở hữu nhiều giá trị dinh dưỡng rất có lợi
cho sức khỏe con người. Cùng HDV tìm hiểu Tôm hùm là gì? Giá trị dinh dưỡng
do Tôm hùm đem lại thông qua bài viết dưới đây nhé!
1. Đặc điểm nổi bật của Tôm
hùm
Tôm hùm thuộc họ Nephropidae, là
một nhóm sinh vật biển, thuộc họ động vật giáp xác sống với hơn 30 loài tôm hùm
càng và 45 loài tôm hùm gai từ nhiều vùng biển khác nhau trên thế giới. Có nhiều
giống tôm hùm điển hình như tôm hùm Alaska, tôm hùm Tây Úc, tôm hùm Nam Úc, tôm
hùm Bông,...Tuy nhiên dù thuộc giống nào thì tôm hùm cũng có những đặc điểm
chung như:
- Tôm hùm là gì?
Tôm hùm không phải là côn trùng
thay vào đó chúng là loài giáp xác thuộc ngành Arthropoda. Cơ thể của động vật
giáp xác tương tự như cơ thể của côn trùng nhưng chúng khác nhau ở nhiều điểm.
Tôm hùm không có râu và cánh trong khi côn trùng có một cặp râu và cánh. Tôm
hùm thường bao gồm năm cặp chân, mắt kép, hai cặp râu dài và chân để bơi được gắn
vào phần bụng thon dài. Cơ thể của tôm hùm được bao phủ bởi bộ xương ngoài là một
lớp vỏ cứng và cơ thể của chúng được chia thành các phần khác nhau. Tôm hùm chủ
yếu ăn động vật chết và do đó được gọi là động vật ăn xác thối nhưng chúng cũng
ăn cá sống, động vật thân mềm nhỏ và rong biển. Một số loài tôm hùm như tôm hùm
thật và tôm hùm gai có tầm quan trọng thương mại rất lớn.
Tôm hùm có răng bên trong dạ dày
ngay phía sau mắt giúp khuấy thức ăn. Tôm hùm đôi khi được gọi là bọ vì hệ thống
thần kinh của chúng tương tự như kiến và châu chấu. Một số loài cua được gọi
là tôm hùm Spiny Caribbean không có móng vuốt và được bán thương mại để lấy thịt
đuôi của chúng. Tôm hùm có màu xanh lục, xanh lam và một số có nhiều màu và
chúng sẽ chuyển sang màu đỏ khi được nấu chín.
Tôm hùm được xếp vào loại “động vật
thông minh tuyệt vời” cùng với một số loài động vật khác như cá heo. Chúng được
biết đến là loài có tính xã hội và cũng sử dụng các tín hiệu phức tạp để khám
phá môi trường xung quanh. Tôm hùm có khả năng nhận ra những con tôm hùm khác
và người quen, đồng thời cũng có những nghi thức tán tỉnh kéo dài.
- Tôm hùm sống ở đâu?
Tôm hùm là loài sinh vật đáy, sống
dưới đáy đại dương. Chúng thích nhiệt độ từ 15-18°C (59-64°F) và độ mặn 20-25
ppt. Tôm hùm Mỹ có thể được tìm thấy ở bờ biển phía đông của Bắc Mỹ, từ
Newfoundland đến Bắc Carolina. Tôm hùm nhỏ (chiều dài mai dưới 3.81cm) rất bí
hiểm, ẩn nấp trong và xung quanh các loại cỏ biển và môi trường sống bằng đá,
nơi cung cấp đủ thức ăn và nơi trú ẩn khỏi những kẻ săn mồi.
Tôm hùm con (1,5″ – 3,5″ chiều
dài mai) thống trị các môi trường sống ven biển và các khu vực ngoài khơi. Họ
thường thể hiện hành vi di cư tối thiểu. Những con tôm hùm trưởng thành lớn
hơn, linh hoạt hơn có thể sống ở vùng nước sâu hơn nhưng quay trở lại vùng nước
nông, ấm hơn theo mùa.
- Thức ăn tôm hùm có gì đặc biệt?
Tôm hùm là loài hải sản có họ
hàng gần với côn trùng vì chúng có bộ xương ngoài và có khớp chân giống loài nhện.
Tôm hùm có thị lực kém nên chúng phụ thuộc vào khả năng nếm và ngửi khi di chuyển
dưới đáy đại dương. Cá, tôm, cua ghẹ, cầu gai, giáp xác nhỏ, nhuyễn thể,…ngoài
ra còn ăn các loại thực vật như rong rêu, là những loại thức ăn được tôm hùm
yêu thích.
Sở hữu lượng dinh dưỡng khổng lồ
khi chứa nhiều đồng, đồng thời cũng chứa nhiều dưỡng chất có lợi cho sức khỏe
như kẽm, phốt pho, vitamin B12, magie, vitamin E và axit béo Omega-3. Ước tính
một phần 0.08kg tôm hùm gai cung cấp 200 đến 500 miligam (mg) omega-3 giúp giảm
sự bốc đồng và trầm cảm ở người lớn.
Tôm hùm đặc biệt chứa Cholesterol
nhưng nghiên cứu đã chỉ ra rằng không phải tất cả hàm lượng chất béo cho cơ thể.
Trong thịt tôm hùm có chứa chất béo không bão hòa đa có thể giúp giảm mức
cholesterol giúp hạn chế nguy cơ về đột quỵ và các bệnh về tim mạch.
Thiếu hụt selen ở trẻ em cũng là
một yếu tố môi trường có thể dẫn đến rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). Đảm
bảo rằng một đứa trẻ tiêu thụ đủ selen có thể giúp giảm nguy cơ mắc chứng ADHD.
Hàm lượng đồng trong tôm hùm cao
nhất trong bất kỳ loại thực phẩm nào. Đồng và sắt tác dụng sẽ tạo ra hồng cầu,
nên khi hấp thụ đủ đồng thì sẽ có lợi cho nhiều người bị thiếu máu. Tôm hùm
cũng là một loại hải sản chứa đựng nguồn selen tốt để giúp cải thiện sức khỏe,
cải thiện tâm trạng và cải thiện chức năng tuyến giáp.
3. Các món ăn ngon từ tôm hùm
Bếp Hoàng Gia sẽ giới thiệu cho
các bạn những món ăn được “biến tấu” hấp dẫn từ tôm hùm:
- Tôm hùm hấp bia
- Chuẩn bị nồi hấp size lớn bỏ
vào khoảng 2-3 lon bia, đun sôi.
- Làm sạch tôm hùm rồi cho chúng
vào nồi hấp.
- Trở tôm để tôm chín đều, khoảng
15-20p khi tôm chuyển sang màu đỏ cam, đẹp mắt là tôm chín hẳn, có thể vớt ra để
thưởng thức.
- Tôm hùm nướng phô mai
- Làm sạch tôm, cắt ra thành 2 nửa,
thêm một chút muối và tiêu.
- Chuẩn bị bếp than để nướng,
quan sát thấy than lửa đang hồng thì cho than lên nướng.
- Chuẩn bị sẵn 1 bịch phô mai
Mozzarella, đặc biệt dùng trong làm bánh pizza.
- Khi trở tôm nướng được khoảng
10 phút thì rắc phô mai lên trên và tiếp tục nướng thêm khoảng 5p, phô mai tan
chảy thấm vào tôm cũng là lúc tôm chín.
- Tôm Hùm cháy tỏi
- Làm sạch tôm và chẻ dọc thân
tôm thành 2 nửa.
- Làm nóng chảo bằng nhiều dầu và
phi 5 củ tỏi lớn, đến khi phi vàng thì vớt ra để riêng.
- Sau khi vớt tỏi đã phi vàng ra
để riêng thì tiếp tục đặt tôm hùm vào chảo (tôm nằm ngập trong dầu ăn), chiên
tôm đến khi chín rồi vớt ra.
- Làm nóng chảo khác, cho 60gr bơ
mặn rồi bỏ tỏi đã phi vàng vào và đảo đều tay, đến khi hỗn hợp đã hòa quyện thì
tắt bếp.
- Cho tôm hùm vào hỗn hợp vào xốc
đều đến khi đều rồi trình bày ra dĩa và thưởng thức.
ĐÈO CÙ MÔNG PHÚ YÊN:
Dài 9km l à ranh giới giữa 2 tỉnh Phú Yên và Bình
Định. Theo truyền thuyết thì “Cù” có nghĩa là quái vật, “Cù Mông” có nghĩa là
con rồng nhỏ. Chuyện kể rằng thuở xưa trong khu rừng này có một con rắn sống rất
lâu năm, nó có tâm tu luyện để được hóa kiếp mà tu mãi nó cũng chỉ là một con rắn.
Thất vọng nó đi tìm Phật để hỏi lí do. Trông thấy nó cũng có tâm hướng thiện Phật
bảo nó phải nằm yên một chỗ không được cử động để tịnh tâm. Rắn mừng lắm, nó trở
về và quyết tâm làm theo những gì mà phật đã dạy nó. Cứ thế năm tháng trôi qua
rắn đã nằm yên như thế đã ngàn năm và chắc đã toại nguyện nếu không có một ngày
kia có một tay thợ săn vào rững săn thú đã làm hỏng tâm huyết của con rắn đáng
thương nọ. Chàng thợ săn đó vào rừng đã vài hôm và cảm thấy mệt nên quyết định
tìm một chỗ nào đó để nghỉ mệt. Thấy có cành cổ thụ nằm bên đống lá rừng chàng
bèn ngồi xuống nhóm một đống lửa và định nấu một món gì đó ăn, nhưng chàng có
ngờ đâu khúc cây khô chàng ngồi chính là chỗ con rắn đang nằm khổ công tu luyện,
đống lửa chàng đốt ngày càng cháy lớn, nó táp vào da, thịt con rắn. Rắn quyết
tâm chịu dựng vì không nỡ thấy tâm huyết lâu nay của mình phút chốc bị tiêu hủy,
nhưng cuối cùng rắn cũng không chịu nổi nó phóng mình xuống khe núi, cảm động
cho hoàn cảnh của con rắn, Phật đã hóa nó thành con rồng nhỏ.
Qua đèo Cù Mông, đến ngã ba, rẽ phải vào thành phố Quy Nhơn.
ĐẶC SẢN PHÚ YÊN
1.Sò huyết Đầm Ô Loan
Đặc sản Phú Yên đầu tiên phải kể đến sò huyết đầm Ô Loan nha!
Phải công nhận rằng nếu ăn từng qua món đặc sản Phú Yên này sẽ mãi tương tư bời
thịt sò huyết đầm Ô Loan có vị ngọt bùi tự nhiên, con sò thì to, thịt màu đỏ
tươi mà lại có quanh năm. Sò huyết đầm Ô Loan có nhiều cách chế biến như hấp, nấu
cháu nhưng ngon nhất là nướng hoặc xào me. Nếu có dịp đi du lịch Phú Yên nhớ thử
qua món đặc sản nổi tiếng này nha bạn
Địa chỉ ăn sò huyết đầm Ô Loan ngon nhất Phú Yên
Quán Tuấn - Đầm Ô Loan - Tuy An, Phú Yên
Quán Chúc Xíu - Bạch Đằng, 3, Tuy Hòa, Phú Yên
Quán Hải Sản Cây Phượng - Bạch Đằng, 3, Tuy Hòa, Phú Yên
2. Ghẹ sông Cầu
Đặc sản Phú Yên tiếp theo nhất định phải thử là ghẹ sông Cầu.
Không biết vì sao nhưng ghẹ sông Cầu lại chắt thịt, có vị ngọt thanh tự nhiên
và ngon hơn ghẹ ở vùng khác. Món đặc sản Phú Quốc ngon này thường được rang muối,
nướng mọi, nấu cháo nấu lẩu nhưng theo Cuồng Du Lịch thì ngon nhất là hấp
nha. Chỉ bạn cách phân biệt ghẹ sông Cầu là con nhỏ bằng nắm tay, thân có màu
xanh thẫm riêng càng và yếm có đốm trắng nha.
Địa chỉ ăn ghẹ sông Cầu ngon ở Phú Yên
Quán Bồng Bềnh - Địa chỉ: Cầu Mới Xuân Bình, Sông Cầu, Phú
Yên.
Bè hải sản Út Uyên - Địa chỉ: Bờ Kè Diêm Trường, xã Xuân
Bình, Sông Cầu, Phú Yên
Quán Thằng Bườm - Địa chỉ: Bờ kè cầu Tam Giang (cách 3m),
Sông Cầu, Phú Yên.
3. Dê núi Chóp Dài
Đặc sản Phú Yên không chỉ có hải sản mà còn có thịt dê nữa
nha, mà nổi tiếng nhất là dê núi Chóp Dài. Bạn biết không, núi Chóp Dài còn gọi
là ngọn núi sét đánh vì trên núi có hệ thống phát thanh truyền hình, ra đa quân
sự nên vào mùa mưa thường có sét đánh. Xung quanh núi Chóp Đài nuôi rất nhiều
dê. Và thịt dê núi Chóp Đài đặc biệt thơm ngon hơn nơi khác nên tiếng lành đồn
xa rồi trở thành đặc sản Phú Yên lúc nào không hay. Và món đặc sản Phú Yên này
có nhiều các chế biến ngon như dê hấp cuốn lá mơ, dê nướng lá lốt, cổ dê hấp
bia,…
Địa chỉ ăn dê núi Chóp Dài ngon ở Phú Yên
Dê Chóp Chài – 644 Nguyễn Tất Thành, KP. Phước Hậu 1, Xã Bình
Kiến, Tp.Tuy Hòa
Dê Phương Đông – Thôn Giai Sơn, Xã An Mỹ, H.Tuy An
Dê Tươi 345 – 226 Nguyễn Tất Thành, P. 8, Tp.Tuy Hòa
>>>Xem thêm Chia Sẻ Lịch Trình
Du Lịch Phú Yên 2 Ngày 1 Đêm Tự Túc 1tr5/Người
4. Gà nước mặn
Kể ra chắc nhiều bạn sẽ bất ngờ vì tuy món đặc sản Phú Yên
này tên là gà nước mặn nhưng đó không phải là gà đâu nha mà đó chính là loài cá
bò hòm. Thân cá hòm bò toàn thịt trắng phau lại không tanh mà còn dai thơm như
thịt gà nên gọi thành gà nước mặn. Và món đặc sản Phú Yên này ngon nhất là đem
nướng mọi rồi chấm với muối tiêu chanh bao ngon bao ghiền nha
Địa chỉ ăn gà nước mặn ngon ở Phú Yên
Quán hải sản Năm Sánh - Địa chỉ: 301 – 303 Hùng Vương, P.7,
Tp. Tuy Hòa, Phú Yên
Quán Lâm Hùng - Địa chỉ: Cầu Long Phú, Xã An Cư, Tuy An, Phú
Yên
Quán Thúy Kiều - Địa chỉ: Đầm Ô Loan, Xã An Hải, Tp. Tuy Hòa,
Phú Yên
5. Bánh canh hẹ
Bánh canh hẹ là món ăn sáng bình dân mà bạn dễ dàng bắt gặp ở
nhiều gốc đường tại Phú Yên. Món đặc sản Phú Yên khác với bánh canh nơi khác ở
chỗ sợ bánh canh làm bằng bột gạo, thơm dai mà không bở. Trong bánh canh hẹ Phú
Yên còn có chả cá làm bằng cá cờ, cá thu nên luôn dai ngon kèm với lớp hẹ cắt
khúc càng làm tăng hương vị cho món ăn. Bên cạnh đó nét đặc biệt của món đặc sản
Phú Yên này ở chỗ nước lèo không được ninh từ xương hay thịt heo mà là cá biển
tươi tạo nên vị ngọt thanh đậm đà khó cưỡng.
Địa chỉ ăn bánh canh hẹ ngon nhất Phú Yên
Bánh canh hẹ Thanh Tâm - Địa chỉ: 53 đường Điện Biên Phủ,
P.7, Tuy Hòa, Phú Yên
Bánh canh hẹ Cô Thi - Địa chỉ: 81B Trần Phú, phường 7, Tuy
Hòa, Phú Yên
Bánh canh hẹ xứ Nẫu - Địa chỉ: 222 Trường Chinh, phường 7,
Tuy Hòa, Phú Yên
TOP 10 NHÀ HÀNG PHÚ YÊN NGON
1.Nhà hàng Bò 1 nắng Dì Mai
Địa chỉ: 350 Trần Hưng Đạo, Phường 6, Tuy Hòa, Phú Yên
Hotline: 081 222 3542 - W:balangruoi.com.vn
Có nhiều bạn chưa biết chứ bò 1 nắng cũng là một đặc sản Phú
Yên nổi tiếng và nhà hàng Bò 1 nắng Dì Mai cùng là nhà hàng chuyên thịt bò xin
sò nhất Phú Yên nha. Thiết kế của nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này khá đơn giản,
hiện đại và sạch sẽ.
Nhưng cái đặc sắc là món ăn với menu phong phú hơn 40 món
ngon như cơm chiên dưa bò, gỏi bò bóp thấu, lá xách bò xóc mật,… nhưng vedette
của nhà hàng bò 1 nắng Dì Mai chính là món bò nướng tảng nha. Tuy nhiên nhược
điểm duy nhất của nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này là hơi nhỏ nên chỉ phù hợp với
các nhóm khách du lịch Phú Yên gia đình hoặc theo đoàn nhỏ thôi.
2. Nhà hàng hải sản Quang Anh
Địa chỉ: Đầm Ô Loan, Cầu, Tuy An, Phú Yên
Hotline: 094 415 78 87 - E: nhahanghaisanquanganh@gmail.com
Phải nói hải sản Phú Yên ngon nhất là ở đầm Ô Loan còn nhà
hàng hải sản ở đầm Ô Loan ngon thì có nhà hàng hải sản Quang Anh. Về thiết kế của
nhà hàng hải sản Phú Yên nổi tiếng này khá đơn giản, như kiểu bè hải sản nhưng
không gian rộng rãi, thoáng mát và sạch sẽ. Nhưng bù lại có những góc check in
cực chill và chỗ đậu xe rộng rãi.
Về món ăn thì như trong tên gọi nhà hàng Phú Yên này chuyên về
hải sản nhưng nổi tiếng nhất là cua. Bởi vậy mà nhà hàng hải sản Quang Anh Phú
Yên còn có biệt danh là vua cua đầm Ô Loan. Món ngon của nhà hàng phải kể đến
cua sốt trứng muối, cua rang me, lẩu riêu cua,… Giá ăn uống tại nhà hàng hải sản
Quang Anh giao động từ 200k – 300k nha
3. Nhà hàng Hàu Sữa Đầm Ô Loan
ĐC:Đầm ô loan, Tuy Hòa, Vietnam
T: 093 487 28 72 – E: Nhahanghausuadamoloan@gmail.com
W:Hausuadamoloan.com
4. Nhà hàng Cơm niêu Năm Ánh
Địa chỉ: 394 ĐL Hùng Vương, Phường7, Tuy Hòa, Phú Yên
Hotline: 093 548 73 77 – E:salecomnieunamanh@gmail.com
Nếu đi du lịch Phú Yên và đã chán với hải sản mà bỗng thèm bữa
cơm nhà thì hãy đến nhà hàng cơm niêu Năm Ánh nha bạn. Đây là nhà hàng cơm niêu
Phú Yên nổi tiếng với không gian hiện đại, sang trọng và rộng rãi. Nhà hàng cơm
niêu Năm Ánh chuyên về các bữa cơm gia đình với các món ăn dân dã quen thuộc của
người dân xứ nẫu như cá bống trứng kho tộ, cá đục đầm Ô Loan, hay mực xào mướp
non, mắt cá ngừ đại dương,… Giá cả ăn uống tại nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này
khá hợp lý, đặc biệt có những set cơm đoàn chỉ 130k/khách thôi
5. Nhà hàng Ẩm Thực 338
Địa chỉ: Số 03 Trần Cao Vân, Phường 4, Tp. Tuy Hòa, Phú Yên
Tel: 0257 3898 338 – E:amthuc338py@gmail.com
Thiết kế hiện đại, sang trọng và lịch sự là những
miêu tả chính xác về nhà hàng Ẩm Thực 338. Nhà hàng Phú Yên này như một tòa biệt
thự 3 tầng xinh đẹp, vừa có không gian ngoài trời và không gian trong nhà cho bạn
lựa chọn. Sức chứa của nhà hàng Ẩm Thực 338 khoảng 200 khách nên ngoài phục vụ
các bữa cơm gia đình còn là địa chỉ quen thuộc của các buổi tụ tập liên hoan của
các nhóm khách du lịch Phú Yên
Menu của nhà hàng Phú Yên này khá đa dạng từ Á sang Âu và cả
đặc sản Phú Yên nữa. Món ăn ngon, trình bày đẹp mắt và giá cả hợp lý là những
dánh giá của thực khách đã dũng bữa tại nhà hàng Ẩm Thực 338 này.
6. Nhà hàng Chúc Xíu
Địa chỉ: 5 Độc Lập, Phường 6, Tuy Hòa, Phú Yên.
Tel: 070 327 9999
Tên gọi Chúc Xíu nhưng không hề xíu chút nào nha bạn. Nhà
hàng Phú Quốc ngon này là tòa nhà 2 tầng, được thiết kế đơn giản hiện đại. Đặc
biệt là có không gian ngoài trời, sảnh chung, phòng lại riêng và cả khu vực sân
thượng nữa. Sức chứa của nhà hàng Chúc Xíu Phú Yên khoảng 250 khách nên phù hợp
cho cả nhóm khách đoàn và khách lẻ luôn.
Về món ăn của nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này chuyên về hải sản
tươi sống và cả đặc sản núi rừng luôn nên menu rất đa dạng. Đặc biệt nhà hàng
Chúc Xíu cũng nằm gần biển Tuy Hòa nên luôn mát mẻ, đáng để thử nha bạn
7. Nhà hàng Đại Dương
Địa chỉ: Lô A12 Đại Lộ Hùng Vương, Tuy Hòa, Phú Yên.
Điện thoại: 077.220.2882
– 090.569.4339 - Email: sale@daiduongtuyhoa.com
Phải nói rằng nhà hàng hải sản Đại Dương là một trong nhưng
điểm ăn uống quen thuộc không chi của người dân địa phương mà còn có nhiều
khách du lịch Phú Yên nữa. nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này có thiết kế hiện đại
sang trọng, không gian rộng rãi. Ngoài sảnh chung thi nhà hàng Đại Dương cũng
có phòng riêng, có trang bị sân khấu âm thanh ánh sáng cho các bữa tiệc liên
hoan giao lưu nhóm đoàn nữa nha
Về món ăn thì nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này chuyên về hải sản
tươi sống nha. Trong đó nổi tiếng có tôm hùm xanh, cua đỏ, cá đuối nghệ,…
8. Nhà hàng Làng Chài Phù Đổng
Địa chỉ: 407 Lê Duẩn, Phường 9, TP Tuy Hòa Phú Yên
Hotline: 088 671 08 08 – E: langchaiphudong@gmail.com
Nhà hàng hải sản Làng Chài nằm trên cung đường từ trung tâm đến
2 địa điểm du lịch Phú Yên nổi tiếng là Gành Đá Dĩa và Bãi Xếp nên là điểm dừng
chân ăn uống của nhiều nhóm khách đoàn du lịch Phú Yên. Nhà hàng hải sản Phú
Yên nổi tiếng này có không gian cực kỳ rộng với sức chứa 500 khách. Không gian
nhà hàng lại sang trọng, lịch sự nên phù hợp cho những bữa tiệc liên hoan, gala
dinner đoàn thể. Còn về món ăn thì tất nhiên nhà hàng Làng Chài Phú Yên chuyên
về hải sản tươi sống và những món ăn dân dã đặc sắc của người dân xứ nẫu.
9. Nhà hàng Đông Quảng
Địa chỉ: Số 775 Hùng Vương, Tp. Huy Hòa, Phú Yên
Hotline: 093 439 79 80
Điểm thu hút của nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này chính là
không gian mở, rộng rãi. Toàn bộ nhà hàng Đông Quảng được làm bằng gỗ và mái
ngói mang hơi hướng hoài cổ, tinh tế lại nằm trên một hồ sen tuyệt đẹp. Như đưa
thực khách về lại chốn bình yên thời xưa cũ để thoải mái tận hưởng bữa ăn của
bình.
Bên cạnh đó nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này còn phục vụ cơm
gia đình với các món đặc sản 3 miền bắc trung nam. Món ăn khá rẻ chỉ từ 30k/phần,
nêm nếm vừa miệng lại đẹp mắt. Thái độ phục vụ tại nhà hàng Đông Quang Phú Yên
cũng được đánh giá khá chuyên nghiệp và nhanh nhẹn nữa nha bạn.
10. Nhà hàng hải sản sân vườn Canary
Địa chỉ: Mai Xuân Thưởng, Phường 5, Tuy Hòa, Phú Yên
Hotline: 090 197 08 68 – W: seafoodgardencanary.com
Với vị trí nằm ngay trung tâm thành phố Tuy Hòa lại có không
gian rộng rãi nên nhà hàng hải sản Canary là điểm ăn uống quen thuộc của nhiều
nhóm khách du lịch Phú Yên. Nhà hàng hải sản Phú Yên nổi tiếng này được thiết kế
hiện đại, lịch sự với 2 sảnh ngoài, 1 sảnh trong và 5 phòng lạnh riêng với sức
chứa gần 500 khách. Các món ăn tại nhà hàng hải sản Canary Phú Yên chuyên về hải
sản, món ăn được chế biến đa dạng, ngon miệng và đẹp mắt. Nhân viên phục vụ
chuyên nghiệp và nhiệt tình.
11. Nhà hàng sân vườn Hoàng Gia
Địa chỉ: Số 259 Hùng Vương, Phường 9, Tp. Tuy Hòa, Phú Yên
Điện thoại: 0888
666 456
Đây là một nhà hàng Phú Yên nổi tiếng có không gian đẹp, hiện
đại và sang trọng. Nhà hàng sân vườn Hoàng Gia Phú Yên có cả không gian ngoài
trời và không gian trong nhà với sức chứa khoảng 200 khách. Các món ăn tại nhà
hàng Phú Yên nổi tiếng này chuyên về ẩm thực 3 miền từ nguồn nguyên liệu hải sản
tươi sống có sẵn nên món ăn luôn đảm vảo độ tươi ngon. Bên cạnh đó về giá cả và
thái độ phục vụ của nhân viên cũng được đánh giá tốt. Nên nếu bạn đi du lịch
Phú Yên mà chưa biết ăn ở đâu thì nhà hàng sân vườn Hoàng Gia là một gợi ý hay
cho bạn nha.
12
QUY NHƠN – BÌNH ĐỊNH
Đôi nét về đất
nước con người Bình Định
1. Bình Định, một dải đất hẹp ven biển
Trung Trung bộ, rộng gần 6.100km2. Phía Bắc có đèo Bình Đê làm
ranh giới tự nhiên với tỉnh Quảng Ngãi. Đèo Cù Mông hiểm trở ở phía Nam
nối liền với tỉnh Phú Yên. Vượt qua đèo An Khê ở phía Tây, là bước lên đất Gia
Lai và Tây Nguyên bao la. Bờ biển phía Đông khúc khuỷu dài hơn 140 km với nhiều
cửa sông, cồn bãi, đầm vịnh, ghềnh mũi, bán đảo và hải đảo mênh mông sóng vỗ.
Hiện nay tỉnh Bình Định có 3 huyện miền núi
(An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh), 7 huyện đồng bằng (Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ,
Phù Cát, An Nhơn, Tây Sơn, Tuy Phước và TP Quy Nhơn - thành phố loại 2 thuộc
tỉnh). Dân số toàn tỉnh gần 1,5 triệu người, gồm 4 dân tộc anh em Kinh, Bana,
H’re, Chăm và một số ít người Việt gốc Hoa.
2. Xa xưa, từ năm 938-1470, vùng đất này
đã từng là trung tâm của vương quốc Chăm-pa cổ đại với kinh thành Đồ Bàn hiện
còn di tích ở thôn Nam Tân, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, cùng nhiều phế tích in
đậm sắc thái văn hóa nghệ thuật của dân tộc Chăm tạo thành quần thể kiến trúc
chung quanh thành Đồ Bàn như Thành Cha, Tháp Cánh Tiên (An Nhơn), Thành đá Tà
Cơn (Vĩnh Thạnh), Tháp Dương Long (Tây Sơn), Tháp Bánh Ít (Tuy Phước), tháp Đôi
(Quy Nhơn)…
Dưới triều Lê sơ, từ đời vua Lê Thái Tổ (Lê
Lợi, 1428-1433) đất Đại Việt đã mở rộng vào đến Quảng Nam. Năm Hồng Đức
thứ nhất (1471) vua Lê Thánh Tông lấy vùng đất phía Nam Quảng Nam, từ đèo Bình
Đê đến đèo Cù Mông lập phủ Hoài Nhơn gồm 3 huyện Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn
thuộc Thừa Tuyên Quảng Nam. Đây là vùng đất nguyên thủy của Bình Định ngày nay.
Dưới triều hậu Lê (1533 -1789),
Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước loạn lạc, giang sơn bị chia cắt, dân hai miền
Nam - Bắc lâm cảnh nồi da xáo thịt. Một bộ phận dân ở Bắc Trung bộ trở ra là nạn
nhân của vua Lê, chúa Trịnh, ào ạt di cư vào Nam cùng với quân sĩ của chúa Trịnh
hầu hết là tráng đinh trẻ khỏe bị chúa Nguyễn bắt làm tù binh đưa vào khai phá
vùng đất mới phía Nam.
Từ năm Nhâm Dần (1602) đến năm
Nhâm Tuất (1742), các chúa Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Khoát ba
lần đổi tên phủ Hoài Nhơn thành Quy Nhơn, Quy Ninh rồi lại Quy Nhơn vẫn gồm 3
huyện Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn thuộc Thừa tuyên Quảng Nam.
Khoảng đầu thế kỷ XVIII, căm ghét
bọn tham quan ô lại và bọn địa chủ cường hào sách nhiễu dân lành, Võ Văn Doan tục
gọi là chàng Lía, một thanh niên nghèo giỏi võ nghệ đã chiêu mộ nông dân cùng
khổ xây thành đắp lũy ở khu vực Truông Mây - Hóc Sấu (Ân Đức - Hoài Ân), dấy
binh khởi nghĩa chống chúa Nguyễn. Với khẩu hiệu “Lấy của nhà giàu chia cho người
nghèo”, nghĩa quân Võ Văn Doan đã đánh cướp nhiều gia sản của bọn hào phú, răn
đe chúng không được nhũng nhiễu ức hiếp dân nghèo, bao vây tấn công phủ thành
Quy Nhơn ở Châu Thành (nay thuộc xã Nhơn Thành huyện An Nhơn). Chúa Nguyễn phải
huy động nhiều binh mã đàn áp, bao vây triệt hạ căn cứ Truông Mây, đẩy nghĩa
quân lâm vào cảnh thế cô lực kiệt, đành chịu thất bại.
Cuộc khởi nghĩa chàng Lía là khúc
dạo đầu của phong trào nông dân Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII, gây ảnh hưởng khá rộng
trong nhân dân phủ Quy Nhơn lúc bấy giờ, để lại những ấn tượng tốt đẹp trong ký
ức và truyền thuyết dân gian:
Chiều
chiều én liệng Truông Mây
Cảm thương chàng Lía bị vây trong
thành.
3. Trong đợt giao tranh Trịnh - Nguyễn những năm 1653- 1657, quân chúa
Nguyễn đánh ra Đàng ngoài chiếm 7 huyện của trấn Nghệ An, bắt nhiều dân đưa vào
khai phá vùng đất mới Đàng trong, trong đó có tổ tiên anh em nhà Tây Sơn vốn
người họ Hồ huyện Hưng Nguyên, vào lập ấp Tây Sơn Nhất ở vùng núi An Khê miền
Tây huyện Tuy Viễn, từ đó họ Hồ đổi thành họ Nguyễn. Đến đời Nguyễn (Hồ) Phi
Phúc dời xuống ấp Kiên Thành (nay thuộc xã Bình Thành, huyện Tây Sơn), sinh
được ba người con trai Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ.
Thuở nhỏ ba anh em họ Nguyễn theo học thầy
giáo Hiến là môn khách của Trương Văn Hạnh làm quan Nội hữu thời chúa Nguyễn
Phúc Khoát (1765 - 1777). Trương Văn Hạnh bị quyền thần Trương Phúc Loan ganh
ghét giết hại. Giáo Hiến sợ liên lụy phải trốn vào Quy Nhơn mở trường dạy học
tại ấp An Thái huyện Tuy Viễn (nay thuộc xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn). An Thái
là vùng đất võ nổi tiếng ở Bình Định, dân gian có câu: “Roi Thuận Truyền, quyền
An Thái”. Hàng ngày được thầy giáo Hiến rèn dạy cả văn lẫn võ, ba anh em họ Nguyễn
lại được thúc giục bởi câu sấm “Tây khởi nghĩa, Bắc thụ công” (nổi dậy ở miền
Tây, nên đại nghiệp trên đất Bắc). Giáo Hiến thường khích lệ học trò “Là người
đất Tây Sơn, hãy cố lên!”. Trong 3 anh em họ Nguyễn, Nguyễn Huệ (sinh năm 1752)
trí dũng văn võ song toàn, có chí khí hơn cả.
Năm Tân Mão (1771) ba anh em họ Nguyễn trở về
vùng Tây Sơn thượng đạo lập đồn trại, tích trữ lương thực, rèn sắm vũ khí, dụng
cờ khởi nghĩa.
Với mục tiêu hợp lòng dân “Phò Lê diệt
Trịnh”, thống nhất giang sơn, ngọn cờ đại nghĩa của Tây Sơn đã chiêu tập hàng
ngàn nông dân bị cuộc sống dồn nén, xô đẩy đến bước đường cùng phải vùng dậy
chống cường quyền, áp bức, bất công; trọng dụng nhiều hào kiệt hảo hán đã từng
xã thân vì nghĩa lớn, lôi kéo cả những tù trưởng các dân tộc thiểu số vùng Nam
Trường Sơn. Trong đó có những người tài ba, thao lược trong vùng như Đặng Văn
Long, Võ Văn Dũng, Nguyễn Văn Lộc, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân….Tiêu biểu trong
số tướng lĩnh của nhà Tây Sơn có nữ tướng Bùi Thị Xuân, con gái cụ Bùi Đắc Chí
người Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn (nay thuộc xã Tây Xuân, huyện Tây Sơn).
Ở tuổi trăng tròn, Bùi Thị Xuân vừa có nhan
sắc, vừa có sức mạnh, văn hay chữ tốt, thích làm con trai, múa kiếm đi quyền,
muốn như bà Trưng, Bà Triệu cưỡi voi cầm quân dẹp giặc. Đến 15 tuổi, Bùi Thị
Xuân đã điêu luyện võ nghệ. Mộng được như Bà Trưng, Bà Triệu càng nung nấu tâm
hồn, Bùi Thị Xuân mở lò dạy võ, cưỡi ngựa, luyện voi thu hút rất đông con gái
trong vùng.
Ai về Bình Định mà coi,
Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền.
Câu ca đó có lẽ xuất xứ từ sự tích Bùi Thị
Xuân.
Với đức độ và tài năng của cô gái họ Bùi, nhà
Tây Sơn phong Bùi Thị Xuân làm Đô Đốc tướng quân thống lĩnh 5.000 binh mã và
chỉ huy đội voi chiến. Sát cánh cùng Bùi Thị Xuân còn có các cô gái cũng nhan
sắc văn võ song toàn là Trần Thị Lan, Bùi Thị Nhạn, Huỳnh Thị Cúc, Nguyễn Thị
Dung, Võ Thị Huấn hợp thành “Ngũ phụng thư” (5 cô gái đẹp tài hoa). Đội nữ quân
thiện chiến của Bùi Thị Xuân cùng với các đội quân tiên phong khác khi ra Bắc
diệt quân Trịnh, khi vào Nam đánh chúa Nguyễn, diệt quân Xiêm, lúc thần tốc phá
tan 29 vạn quân xâm lược nhà Thanh giữa kinh thành Thăng Long, đâu đâu cũng
bách chiến bách thắng, làm khiếp đảm quân thù.
Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ đem
quân hạ thành Thuận Hóa của quân Trịnh. Một tháng sau, quân Tây Sơn tiến ra cố
đô Thăng Long thực hiện khẩu hiệu “Phò Lê diệt Trịnh”. Sau nhiều chiến thắng
vang dội, uy danh của Nguyễn Huệ thêm lừng lẫy, được vua Lê Hiển Tông (niên
hiệu Cảnh Hưng 1740-1789) chọn làm phò mã và gả công chúa Ngọc Hân, phong là
Bắc Bình Vương lúc 34 tuổi.
Tháng 7 năm Mậu Thân (1788), Hoàng thái hậu
nhà Lê sang cầu viện triều đình Mãn Thanh, tái phục Lê Chiêu Thống. Lê Chiêu
Thống cõng rắn cắn gà nhà, rước quân xâm lược nhà Thanh vào chiếm Thăng Long.
Dựa thế quân Thanh, vua Lê trả thù tàn bạo những người đã theo Tây Sơn.
Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ xưng Hoàng đế lấy
niên hiệu Quang Trung thân chinh ra Bắc lần thứ ba. Quân thủy bộ Tây Sơn thần
tốc tiến ra Bắc, đúng như dự kiến và lời hứa hẹn của Quang Trung, ngày 7 tháng
Giêng năm Kỷ Dậu (1789), sau khi quét sạch 29 vạn quân Thanh, đội quân bách
chiến bách thắng của Quang Trung - Nguyễn Huệ đã hân hoan ăn Tết khai hạ tại
kinh đô Thăng Long. Hoa đào làng Nhật Tân vẫn còn đang nở rộ khoe hương sắc
mừng mùa xuân đại thắng, chấm dứt cuộc nội chiến Nam - Bắc triều và nạn Trịnh -
Nguyễn phân tranh, thống nhất đất nước, giang sơn thu về một mối.
Dưới quyền trị vì của triều Quang Trung,
nhiều chính sách về chính trị, kinh tế, xã hội, ngoại giao đã được ban hành khá
độc đáo, mở ra triển vọng mới cho một xã hội năng động hơn. Song chưa được bao
lâu thì ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792) Quang Trung bị bệnh hiểm nghèo đột
ngột từ trần lúc 40 tuổi đang đầy tài năng với những dự định lớn lao.
Nguyễn Huệ và Ngọc Hân chỉ sống hạnh phúc
được 6 năm. Quang Trung yêu Ngọc Hân không chỉ vì trẻ đẹp, nết na mà còn vì
trọng tài thơ văn nhạc họa và những kiến thức sâu rộng của nàng về thời cuộc
quốc gia, tình yêu giữa họ càng nồng thắm. Cứ mỗi độ xuân về, người dân Thăng
Long ngắm hoa đào nở lại nhớ đến cành đào Tết Kỷ Dậu, vua Quang Trung áo bào
còn vương thuốc súng đã vội cho ngựa trạm mang cành đào Nhật Tân vào tận kinh
thành Phú Xuân tặng người vợ yêu quý, báo tin đại thắng.
4. Hoàng đế Quang Trung mất, năm Quý Sửu
(1793), Thái tử Nguyễn Quang Toản mới 11 tuổi, con trai đầu của Quang Trung và
Chính cung Hoàng hậu, nối nghiệp vua cha, lấy niên hiệu Cảnh Thịnh (1793-1802).
Đất nước lại rối ren, hoàng tộc nhà Lê chuyên quyền ở phía bắc, chúa Nguyễn
khôi phục lực lượng rập rình rửa hận ở phía Nam.
Năm Kỷ Mùi (1799), chúa Nguyễn Phúc Ánh được
người Pháp tiếp tay từ Gia Định kéo quân vượt biển đánh chiếm phủ thành Quy
Nhơn. Ba mẹ con Ngọc Hân bị bắt, Ngọc Hân uống thuốc độc quyên sinh lúc 29
tuổi, hai con nhỏ bị bức tử. Năm sau, Phúc Ánh đổi phủ Quy Nhơn thành dinh Bình
Định, đổi ấp Tây Sơn thành ấp An Tây nhằm đề cao công cuộc “bình định” đánh đổ
nhà Tây Sơn. Sau khi chiếm được Phú Xuân, ngày 16 tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802)
quân Nguyễn tiến đánh Thăng Long, triều Tây Sơn đến đây tan rã. Nguyễn Phúc Ánh
lên ngôi vua lấy niên hiệu Gia Long (1802 - 1819), ra tay trả thù nhà Tây Sơn
cực lỳ tàn bạo và hèn hạ. Hầu hết thân nhân của Quang Trung và những người hiền
tài đã từng phụng sự nhà Tây Sơn đều bị hành hình, hai mẹ con nữ tướng Bùi Thị
Xuân bị bắt cho voi giày, mộ vua Quang Trung táng tại phủ Dương Xuân trong kinh
thành Phú Xuân bị quật lên, thành Hoàng Đế (cổ thành Đồ Bàn) bị triệt phá…
5. Dưới các vương triều nhà Nguyễn, địa
danh Bình Định nhiều lần thay đổi tên gọi: Bình Định Định (1800), Bình Định
trấn (1808), Quy Nhơn trấn (1813), Hoài Nhơn phủ (1831), Bình Định tỉnh (1832).
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng,
chính thức xâm lược nước ta. Nhưng gặp phải sức kháng cự quyết liệt của nhân
dân ta, nên thực dân Pháp phải chuyển vào tiến công Nam bộ. Nhằm thực
hiện ý đồ xâm lược, thực dân Pháp rắp tâm bắt vua Hàm Nghi, một ông vua yêu
nước lên ngôi lúc 13 tuổi để chúng dễ bề xâm lược toàn cõi Việt Nam. Tháng 7
năm Ất Tỵ (1885), kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi được giải thoát lên
vùng núi phía Tây Quảng Trị ra chiếu Cần Vương kêu gọi sĩ phu, hào kiệt và nhân
dân giúp vua cứu nước.
Tại Bình Định, hưởng ứng chiếu Cần Vương, từ
giữa tháng 8-1885, dưới sự lãnh đạo của Đào Doãn Địch, nghĩa quân đã nổi dậy ở
Phù Mỹ, Hoài Nhơn, An Nhơn, Tuy Phước, Bình Khê…, cuối tháng 8 chiếm được thành
Bình Định. Đầu tháng 9-1885, quân Pháp chiếm lại thành Bình Định, nhưng nghĩa
quân vẫn làm chủ tình hình toàn tỉnh. Đào Doãn Địch rút quân về Bình Khê phối
hợp với nghĩa quân Mai Xuân Thưởng chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài.
Mai Xuân Thưởng sinh năm 1860 tại làng Phú
Lạc, xã Bình Thành, huyện Bình Khê. Đậu cử nhân Hán học khoa thi hương năm Ất
Dậu (1885) lúc 25 tuổi. Cha là Mai Xuân Tín (tức Mai Văn Phẩm) đậu cử nhân Hán
học năm Đinh Mùi (1847), làm quan Bố Chánh Cao Bằng. Mặc dù có học, đỗ đạt cao,
nhưng Mai Xuân Thưởng không ra làm quan mà dấy binh khởi nghĩa hưởng ứng chiếu
Cần Vương cứu nước.
Sau khi Đào Doãn Địch lâm bệnh chết, Mai Xuân
Thưởng liên kết với nghĩa quân Bùi Điền ở Phù Mỹ, Tăng Bạt Hổ ở Hoài Ân thống
nhất lực lượng chống Pháp và triều đình nhà Nguyễn. Dưới quyền thống lĩnh của
Mai Xuân Thưởng, nghĩa quân Cần Vương Bình Định không những làm chủ tình hình
toàn tỉnh mà còn phối hợp chiến đấu với nghĩa quân ở Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh
Hòa, Bình Thuận từ cuối 1885 đến giữa 1886. Đầu năm 1887, gần 7.000 quân Pháp
và Nam Triều đàn áp khốc liệt phong trào Cần Vương ở Bình Định, nhưng nghĩa
quân vẫn ngoan cường chiến đấu trong các trận đánh quyết liệt ở Kim Sơn, Bồng
Sơn, Phù Ly, Bàu Sấu, Thủ Thiện, Đồng Hươu…
Phong trào Cần Vương ở Bình Định là một trong
những cuộc khởi nghĩa lớn của phong trào Cần Vương cả nước những năm 1885 –
1890, là đỉnh cao của phong trào này ở các tỉnh Nam Trung bộ.
Lực lượng chênh lệch quá lớn, trước sức đánh
phá quyết liệt của Pháp và lính Nam Triều cùng những thủ đoạn nham hiểm của bọn
Việt gian tay sai như Nguyễn Thân, Trần Bá Lộc, nghĩa quân thất thế, Mai Xuân
Thưởng rút quân vào vùng núi Vân Canh giáp Phú Yên, sau đó bị vây bắt. Ngày 7
tháng 6 năm 1887, Mai Xuân Thưởng cùng 12 trợ thủ đắc lực bị chém đầu tại Gò
Chàm, xã Nhơn Hưng, huyện An Nhơn. Lúc đó ông mới 27 tuổi.
Phong trào Cần Vương bị đàn áp thảm khốc,
nhưng các chiến sĩ yêu nước ở Bình Định không sờn chí. Phạm Toản lập căn cứ
trong rừng sâu kéo dài cuộc chiến đấu đến năm 1890. Nguyễn Đa chạy vào An Giang
tiếp tục chống Pháp, Tăng Bạt Hổ qua Xiêm, Trung Quốc, Nga rồi đưa cụ Phan Bội
Châu sang Nhật cổ động phong trào Đông Du (1905-1908), Võ Trứ cùng Trần Cao Vân
xây dựng lực lượng trong nông dân và sư sãi hai tỉnh Bình Định, Phú Yên, phát
động cuộc khởi nghĩa sông Cầu (1895)…
Trước nạn xâm lược của thực dân Pháp, nhiều
người con của quê hương Bình Định trên đất Nam bộ và Huế cũng có
những nghĩa cử cao đẹp. Nguyễn Văn Viện cùng một số người trong hoàng tộc nhà
Nguyễn tổ chức cuộc binh biến tại Huế bắt khâm sứ Pháp phải đầu hàng. Võ Duy
Dương (biệt danh Ngũ Linh Dương, Thiên Hộ Dương), sau khi tham gia bảo vệ thành
Gia Định và cuộc khởi nghĩa Trương Định đã về Đồng Tháp Mười lập căn cứ chống
Pháp. Nguyễn Văn Lịch (tức Nguyễn Trung Trực) người con của Long An chánh quán
Bình Định với chiến công lẫy lừng đốt cháy tàu “Hy vọng” của giặc Pháp. Trước
lúc hy sinh ông đã nói một câu bất hủ: “Bao giờ đất Nam hết cỏ thì
người Nam mới hết đánh Tây”…
Tiếp theo phong trào Cần Vương, những tháng
giữa năm 1908, nhân dân nổi dậy chiếm các phủ, huyện lỵ Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù
Mỹ, Tuy Phước, An Nhơn, Bình Khê… Hơn 3 vạn nông dân bao vây thành Bình Định
quyết liệt chống sưu cao, thuế nặng, đòi trừng trị bọn quan lại tham nhũng, bất
chấp sự đàn áp, khủng bố của nhà cầm quyền. Sau cuộc khởi nghĩa 1885-1887, đây
là cuộc nổi dậy mạnh mẽ, sôi sục trên quy mô toàn tỉnh, thực dân Pháp phải điều
lính lê dương từ Hà Nội, Hải Phòng vào Bình Định đối phó. Cuộc đấu tranh chống
sưu thuế từ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi lan đến Bình Định thì ngọn sóng
lại khởi lên mạnh mẽ hơn các nơi khác.
Những năm đầu thế kỷ XX, đồng bào các dân tộc
miền núi đứng lên chống Pháp cướp đất lập đồn điền, chống sưu thuế. Cuộc khởi
nghĩa của đồng bào Ba Na (Vĩnh Thạnh) và H’re (An Lão) kéo dài ngót 30 năm
(1900-1929). Tuy quân Pháp đóng được một số đồn binh ở An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân
Canh nhưng chúng không khuất phục nổi đồng bào các dân tộc, không thể nào kiểm
soát được vùng núi phía Tây Bình Định.
6. Trong xã hội có nhiều thành phần giai
cấp, tầng lớp, tuy địa vị, hoàn cảnh, mức độ giàu nghèo khác nhau, nhưng tâm tư
chung của người Bình Định là cố gắng tần tảo lo cho con em ăn học biết chữ để
làm người có ích cho đời, đó là truyền thống hiếu học, đã sản sinh và nuôi
dưỡng không ít trí thức thông tuệ, tài hoa, thanh bạch.
Dưới các triều đại phong kiến nhà Nguyễn, từ
1802 đến 1918 đã có 246 người Bình Định đậu cử nhân Hán học (1 Hoàng giáp, 5
Tiến sĩ, 3 Phó bảng). Trong đó có những người thành đạt lúc còn rất trẻ như
Nguyễn Văn Hiển (Phù Cát, sinh 1826), cử nhân 20 tuổi, Hoàng giáp 21 tuổi; Lê
Văn Chân (Phù Mỹ, sinh 1817) cử nhân 17 tuổi, tiến sĩ 25 tuổi; Trần Văn Chánh
(Hoài Ân, sinh 1821), thủ khoa cử nhân (giải nguyên) 19 tuổi, tiến sĩ 20 tuổi;
Hồ Sĩ Tạo (An Nhơn, sinh 1869) cử nhân 22 tuổi… Người đậu cử nhân trẻ tuổi nhất
có Văn Vĩ 16 tuổi (sinh 1902), sau đó đi học ở Pháp, (con Văn Vĩnh Thiệu, quê
Phù Cát, đậu cử nhân năm 1906)…
Từ năm 1852 vua Tự Đức mở trường thi Hương
tại thành Bình Định (An Nhơn) chọn cử nhân các tỉnh Nam Trung bộ. Tại trường
thi Bình Định, tính đến năm 1915 (đời vua Khải Định) đã tổ chức 23 kỳ thi
Hương, 192 sĩ tử Bình Định đậu cử nhân, trong đó có 14 thủ khoa (giải nguyên)
và 9 cử nhân nhì (á nguyên). Kỳ thi năm 1852 Bình Định có 11 người đậu trên
tổng số 13 người dự thi trong khu vực, Cao Văn Tuấn (Tuy Phước) đậu thủ khoa.
Kỳ thi năm 1867 đậu 14/18 người, Lê Đăng Đệ thủ khoa, Nguyễn Tạo cử nhân nhì
(đều là người Phù Cát). Kỳ thi năm 1906, Lê Chuân (Hoài Ân) đậu thủ khoa lúc 23
tuổi…
“Học để làm người”, không ít bậc khoa bảng
Bình Định mặc dù đỗ đạt cao, nhưng không màng danh lợi chốn quan trường mà chọn
cuộc sống dân dã nơi bản quán, dạy học, làm thuốc trong cảnh điền viên thanh
bạch. Chính họ là những người hướng dẫn dư luận xã hội, đứng về phía nhân dân
chống cường quyền, áp bức, bất công. Cũng có người làm quan, nhưng cương trực,
khí khái “tâm bất phục, khẩu bất phục” can tội chống đối triều đình, bị giáng
chức, miễn chức như Tuần vũ Lê Văn Chân (Phù Mỹ), Tri phủ Trần Văn Chánh (Hoài
Ân), Tri huyện Trần Đức Tú, Nguyễn Văn Thạch (Tuy Phước), Ngự sử Trần Kinh Vĩ
(Phù Cát), Ngự sử Trần Văn Quang (Hoài Ân, anh ruột Trần Văn Chánh)… Lại có
những si phu hào kiệt tỏ rõ thái độ phản kháng quyết liệt, lãnh đạo nhân dân
đứng lên chống lại giai cấp thống trị và chế độ đương thời, như Mai Xuân
Thưởng, Hồ Sĩ Tạo, lê Chuân…
Tiêu biểu cho giới trí thức Bình Định thời
bấy giờ có Đào Tấn (1845-1907) người làng Vinh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy
Phước, đậu cử nhân năm 1867 lúc 22 tuổi, làm Tổng đốc Nghệ An. Với kiến thức
uyên bác, tài năng đa dạng, Đào Tấn cùng nhiều lớp nghệ sĩ tài danh dòng tuồng
cổ Bình Định đã góp phần xứng đáng đưa nghệ thuật sân khấu tuồng cổ Việt Nam
phát triển lên đỉnh cao, đậm đà bản sắc dân tộc, mang tính xã hội và nhân văn
sâu sắc. Lúc còn ở Nghệ An và Huế, cụ Nguyễn Sinh Sắc – thân sinh của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng là người bạn tri kỷ tâm đắc với nhà nghệ sĩ tài ba họ Đào.
Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc được bổ làm Tri
huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn, Bình Định) tháng 5-1909, là một vị quan
nổi tiếng thanh liêm và thương dân. Nguyễn tất Thành vào Bình Định thăm cha, ở
nhà cụ Phạm Ngọc Thọ (thân sinh cố Bác sĩ Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch) tại
Quy Nhơn học thêm tiếng Pháp. Khoảng 7/1910, Nguyễn Tất Thành chia tay cha, rời
Bình Định vào dạy học tại trường Dục Thanh ở Phan Thiết một thời gian ngắn rồi
vào Sài Gòn sang Pháp (1911). Sau này được biết về sự kiện đó, nhân dân và tuổi
trẻ Bình Định rất vinh dự và tự hào vì trước khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường
cứu nước, Bác Hồ kính yêu đã có một thời gian dừng chân ở Bình Định, quê hương
của cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn và người anh hùng dân tộc “áo vải cờ đào”
Quang Trung - Nguyễn Huệ.
7. Bên cạnh nghệ thuật tuồng cổ đặc sắc,
Bình Định còn là mảnh đất màu mỡ cho văn hóa dân gian nảy lộc đâm chồi, đơm hoa
kết trái. Ca dao, dân ca, tục ngữ, hò vè, hát lý, hát kết, hát bá trạo, bài
chòi, chuyện cười, hơ-mon… ấm áp tình người, nồng thắm hương vị và cảnh sắc quê
hương xứ dừa. Những lễ hội dân gian như đổ giàn, đua ngựa, bơi thuyền, múa lân,
đâm trâu, đấu võ… bừng bừng khí thế lao động và tinh thần thượng võ. Trong sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian mang tính quần chúng rộng rãi đã đọng lại biết
bao lời hẹn ước, chớm nở biết bao tình yêu đôi lứa.
Bình Định còn là nơi sản sinh và nuôi dưỡng
tâm hồn những nhà thơ, nhà văn tên tuổi đã có những đóng góp xứng đáng vào nền
văn học Việt Nam cận đại và hiện đại như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử…
Từ sau Cách mạng tháng 8/1945, dưới đường lối giáo dục cách mạng của Đảng đã
xuất hiện một lớp trí thức mới “hồng thắm chuyên sâu”, không ít thanh thiếu
niên sinh trưởng trên đất Bình Định được đào tạo trong và ngoài nước, trở thành
những nhà khoa học có học hàm học vị cao, cống hiến trí tuệ, tài năng và sức lực
vào sự nghiệp xây dựng đất nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong thời đại
mới. Tiêu biểu trong đội ngũ trí thức đó có Phan Phải, Nguyễn Đình Tứ, Đặng
Hữu, Nguyễn Cang…
Với bàn tay và khối óc, trí thông minh và
lòng dũng cảm, trải qua quá trình lao động và chiến đấu lâu dài, các thế hệ
người Bình Định đã xây dựng vùng đất hoang sơ này trở thành trù phú, kinh tế
ngày càng phát triển, xã hội ngày càng đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân không ngừng được cải thiện.
Hơn 5 thế kỷ xây dựng và bảo vệ quê
hương kể từ khi hình thành phủ Hoài Nhơn (1471), vùng đất nguyên thủy của tỉnh
Bình Định ngày nay, kế thừa và phát huy những tinh hoa, truyền thống tốt đẹp
của các thế hệ ông cha qua chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt để gây dựng,
phát triển và cải thiện, dân sinh, từng bước đẩy lùi nghèo nàn và lạc hậu, cũng
như trong đấu tranh chống cường quyền, áp bức, bất công và xâm lược, trong bản
sắc chung của dân tộc Việt Nam, lớp lớp người Bình Định đã được giáo dục, rèn
luyện, hun đúc nên những nhân cách, phẩm chất cao quý: Thượng võ, yêu nước,
ghét áp bức bất công, dám xả thân vì nghĩa lớn; hiếu học, thông minh, cần cù,
sáng tạo; nhân hậu thủy chung, trọn nghĩa vẹn tình; đồng tâm hiệp sức, tự lực
tự cường để xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trường tồn…
VỊNH GỀNH RÁNG – TIÊN SA
Nằm ở phía đông nam TP. Quy Nhơn, là tác phẩm
thiên tạo với quần thể sơn thạch chạy sát biến, nơi những dãy đá núi nhấp nhô,
chập trùng tạo thành hang, thành rạng, thành gành, với một bên là những bãi cát
đài trắng mịn và mặt biển xanh màu ngọc bích rì rào sóng vỗ... tất cả tạo nên
một Ghềnh Ráng nguyên sơ, một bức tranh thủy mặc hữu tình kỳ vĩ và thơ mộng.
Men theo con đường đất uốn lượn theo triển
núi, du khách sẽ chiêm ngưỡng những tác phẩm điêu khắc mà tạo hóa đã ban tặng
cho Ghềnh Ráng như bãi tắm độc đáo với vô số viên đá cuội được sóng biển mài
nhẵn như những quả trứng khống lồ, nơi dành riêng cho Nam Phương Hoàng Hậu khi
về đây nghỉ mát tắm biển nên còn gọi là bãi tắm Hoàng Hậu; là đá Vọng Phu được
sóng và gió biển tạc khắc như hình dáng người vợ ngóng chồng; là dãy đá có hình
sư tử dũng mãnh “trợ gan cùng tuế nguyệt” trước sóng gió và thời gian; là bãi
tắm Tiên Sa đẹp nao lòng nhuốm màu huyền thoại.
Bên cạnh sườn đồi là nơi an nghỉ của nhà thơ
Hàn Mặc Tử - một thi sĩ nổi tiếng trong làng thi ca Việt Nam. Từ đây du khách
có thể ngắm bao quát toàn bộ phía đông thành phố Quy Nhơn và xa hơn là bán đảo
Phương Mai với đầm Thị Nại như một bức tranh nhiều cảm xúc.
Ghềng Ráng được vua Bảo Đại chọn là nơi nghỉ
mát cho hoàng gia từ những năm 1927.
ĐẦM THỊ NẠI
Nằm cách thành phố Quy Nhơn 8km về phía đông
bắc, đầm Thị Nại là đầm lớn nhất Bình Định có hệ sinh thái phong phú với nhiều
loại động thực vật quý và nhiều thắng cảnh đẹp rất hấp dẫn du khách. Đầm Thị
Nại có diện tích trên 5.000ha mặt nước, chạy dài hơn 10 cây số, bề rộng tới gần
bốn cây số. Nơi đây có nguồn tài nguyên quý giá do thiên nhiên ban tặng, và là
nơi ẩn chứa đa dạng về sinh học với hệ sinh thái rừng ngập mặn phong phú: trong
đó thảm cỏ biển có tới 25 loài; hệ động vật có 64 loài phù du, 76 loài cá; có
hàng trăm loài chim, trong đó 23 loài thuộc nhóm chim nước và chim di cư, 10
loại chim rừng.... Trong đầm, ở gần bờ phía tây có một núi nhỏ - trên đó có
ngôi miếu nhỏ do dân chài lập ra để thờ thủy thần - hình dáng núi tựa như một
ngôi tháp cổ, gọi là Tháp Thầy Bói, làm cho cảnh quan đầm thêm sinh động và hấp
dẫn. Mỗi buổi ban mai, những tối trăng tròn chìm ngập trong rừng ngập mặn xanh
tươi, mặt đấm mờ mờ, huyền ảo như chốn thần tiên.
Trong lịch sử, đầm Thị Nại là căn cứ thuỷ quân của nhà Tây Sơn, nơi diễn ra
những trận thuỷ chiến ác liệt giữa nghĩa quân Tây Sơn với quân Nguyễn Ánh vào
đầu thế kỷ XIX (năm 1801).
Nằm về phía đông đầm Thị Nại, như một tấm bình phong khổng lồ án ngữ phía biển
cho thành phố Quy Nhơn là bán đảo Phương Mai, với hệ thống núi đá trùng điệp và
những đồi cát khổng lồ, ăn ra biển chạy dài khoảng 15km. Phía bắc bán đảo và
chếch về phía tây bắc là những bãi biển tuyệt đẹp chạy dài hàng chục km. Nhìn
từ xa, bán đảo Phương Mai như đầu một con rồng, thân nằm dài về phía bắc đến
tận cửa Đề Gi. Tận cùng phía nam của bán đảo là một lưỡi nhọn hình mũi mác với
nhiều hóc đá kỳ thú, hiểm trở, chim yến thường kéo về làm tổ, dâng tặng cho
loài người đặc sản “yến sào" vô cùng bổ dưỡng, quý hiếm.
Hòa trong vẻ đẹp thiên nhiên của đầm Thị Nại - ban đảo Phương Mai là công trình
cầu đường Quy Nhơn - Nhơn Hội với tổng chiều dài toàn tuyến hơn 7km gồm 5 cầu
ngắn và cầu Thị Nại. Trong đó, nổi bật là cầu Thị Nại có chiểu dài 2.477,3m đây
là cầu vượt biển dài nhất Việt Nam với 54 nhịp nối liền thành phố Quy Nhơn và
khu kinh tế Nhơn Hội. Cầu Thị Nại không chỉ là niềm tự hào của người dân Đất
võ, mà còn là điểm nhấn hấp dẫn biết bao du khách khi đến TP. Quy Nhơn.
Lịch sử Đầm Thị Nại
Người dân xứ võ từ xưa có câu: “Bình Định có
hòn Vọng Phu/ Có đầm Thị Nại, có cù lao Xanh”. Đầm Thị Nại là một thắng cảnh
nổi tiếng của tỉnh Bình Định.
Nằm phía đông bắc TP. Quy Nhơn, rộng 4 km,
trải dài trên 10 km, với diện tích mặt nước hơn 5.000 ha, đầm Thị Nại là một
trong 4 đầm nước mặn lớn nhất ở Bình Định. Đầm là nơi hợp lưu của sông Côn và
sông Hà Thanh, ngăn cách với biển Đông bởi bán đảo Phương Mai. Chỗ thông ra
biển của đầm chính là cảng Quy Nhơn hiện nay. Năm 2006, cầu Thị Nại bắc qua đầm
nối liền bán đảo Phương Mai với TP. Quy Nhơn được khánh thành với chiều dài
2.475 m, tổng cộng 54 nhịp, được xem là một trong những biểu tượng của tỉnh Bình
Định.
Đầm Thị Nại có tên chữ Hán là Hải Hạc đàm
(đầm có nhiều chim hạc biển). Thị Nại là địa danh Chăm, có nguồn gốc từ tiếng
Phạn là CriVinaya, phiên âm Hán Việt là Thị-lị-bì-nại, về sau biến âm thành Thị
Nại. Người Hoa gọi đầm là Tân Châu. Trong quá khứ, đây là một hải cảng nổi
tiếng của vương quốc Chiêm Thành.
Không chỉ mang vẻ đẹp yên bình, thơ mộng, đầm
Thị Nại còn gắn liền với những trận thủy chiến nổi tiếng và số phận của nhiều
triều đại. Nằm ở vị trí quan trọng, là cửa ngõ dẫn vào kinh đô Chiêm Thành và
triều Tây Sơn sau này, đầm Thị Nại trong lịch sử đã chứng kiến nhiều trận đánh
“long trời lở đất”. Chẳng hạn, năm 1284, vua nhà Nguyên sai con là Thoát Hoan
cùng các tướng Toa Đô, Ô Mã Nhi kéo quân vào cửa Thị Nại đánh Chiêm Thành nhưng
thất bại, phải bỏ chạy theo đường bộ về Nghệ An, bị quân Đại Việt truy đuổi.
Năm 1470, vua Lê Thánh Tông thân chinh cầm 20 vạn tinh binh đánh tan quân Chiêm
trên cửa Thị Nại, sau đó hạ thành Đồ Bàn. Năm 1799, Nguyễn Ánh cử đại binh đánh
tan quân Tây Sơn trên cửa Thị Nại, chiếm được thành Quy Nhơn; đến năm 1800,
quân Phú Xuân dưới sự chỉ huy của Trần Quang Diệu đánh vào Thị Nại do Võ Văn
Dũng trấn giữ, chiếm lại được thành Quy Nhơn. Năm 1801, Nguyễn Ánh cử đại binh
tiến vào Thị Nại, dùng mưu đánh bại thủy binh của Tây Sơn, thành Quy Nhơn thất
thủ. Đây là trận thủy chiến lớn nhất và sau cùng giữa nhà Tây Sơn và quân
Nguyễn Ánh, được các sử gia nhà Nguyễn sau này ghi nhận là “đệ nhất vũ công”.
Người đời sau xem đây là “trận Xích Bích” của người Việt.
Quách Tấn, tác giả Thơ mới nổi tiếng, đứng
trước cái mênh mang của đầm nước từng chôn vùi bao tang thương dâu bể của lịch
sử, đã viết nên những vần thơ cảm hoài về chiến trường Thị Nại năm xưa: “Thị
Nại xưa kia vũng chiến trường/ Nổi chìm thế sự mấy triều vương…”.
Hiện nay, với tiềm năng đa dạng sinh học
(rừng ngập mặn, thảm cỏ biển với 25 loại, động vật có 64 loài phù du, 76 loài
cá, hơn 33 loài chim), đầm Thị Nại đang được địa phương khai thác để trở thành
một điểm du lịch sinh thái.
Về thành phố biển Quy Nhơn, bạn hãy một lần
đến đầm Thị Nại, thả hồn mình giữa sơn thủy hữu tình, lắng lòng trước bao thăng
trầm của lịch sử, chắc chắn sẽ là những trải nghiệm vô cùng thú vị.
Đảo Kỳ Co
Đảo Kỳ Co nằm trong chuỗi những điểm đến đáng
trải nghiệm nhất tại vùng đất Quy Nhơn. Vì chưa được khai thác du lịch nhiều
nên đảo Kỳ Co vẫn giữ được những nét đẹp hoang sơ và trong lành hiếm nơi nào có
được.
Giới thiệu đôi nét về Đảo Kỳ Co
Đảo Kỳ Co là bãi tắm thuộc khu vực bán đảo
Phương Mai, xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Bãi tắm nằm cách
trung tâm thành phố 25 km về phía Đông Bắc. Chân núi Phương Mai ôm gọn bãi Kỳ
Co từ đằng sau, tạo thành một đường bờ biển hình vòng cung đầy quyến rũ. Đảo Kỳ
Co được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho rất nhiều lợi thế để trở thành một
trong những điểm du lịch đẹp nhất ở Quy Nhơn.
Nước biển tại bãi Kỳ Co trong vắt, mắt người
nhìn xuống có thể soi được rõ những hạt cát lấp lánh đang len lỏi dưới ngón
chân hay những chú cá con đang bơi lội tung tăng. Mực nước ở đây khá nông nên
người lớn hay trẻ em đều có thể thỏa thích bơi lội, ngâm mình trong làn nước
trong xanh.
Bên cạnh đó, bờ cát trắng mịn màng và bằng
phẳng là nơi lý tưởng để thong thả tản bộ ngắm cảnh, để những con sóng nhẹ
nhàng vỗ về vào đôi bàn chân. Một bên là đồi núi hùng vĩ, một bên là biển rì
rào từng đợt sóng hiền hòa, tạo nên khung cảnh vô cùng nên thơ hữu tình cho Đảo
Kỳ Co.
Chơi gì tại đảo Kỳ Co
Đến với bãi tắm đẹp tựa thiên đường như Kỳ Co
mà không xuống tắm biển thì quả là có lỗi với thiên nhiên nơi đây. Ngoài bờ
biển chính, bạn có thể đến ngâm mình tại những hồ bơi nhỏ, được tạo nên từ
những khe đá giữ nước lại mỗi khi thủy triều lên. Bên cạnh đó, khu hồ bơi nhân
tạo cũng rất thích hợp để vui chơi cho gia đình hoặc nhóm bạn từ 6-7 người.
Những bạn trẻ yêu thích chụp ảnh, check-in có
thể đến thăm quan Cầu Hang Yến - cây cầu gỗ đi dọc eo biển giúp du khách khám
phá hết cảnh thiên nhiên nơi đây. Vé một lượt tham quan là 40.000đ.
Làn nước biển trong vắt của Kỳ Co sẽ giúp du
khách có thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp rực rỡ và huyền ảo của những rặng san
hô dưới đáy biển. Vì thế khi tới đây bạn đừng bỏ lỡ trải nghiệm lặn ngắm san hô
nhé. Giá vé dao động từ 250.000đ - 1.000.000đ/ người, tùy vào loại hình lặn mà
bạn chọn. Kể cả khi bạn không biết bơi, đội ngũ huấn luyện viên sẽ hướng dẫn kĩ
càng và luôn hỗ trợ trong suốt quá trình lặn của bạn.
Ngoài ra, đảo Kỳ Co còn tổ chức các hoạt động
vui chơi mạo hiểm như dù bay, mô tô nước, thuyền phao chuối,...
Di chuyển đến đảo Kỳ Co như thế nào?
Bạn có thể chọn 1 trong 2 cách sau để đến đảo
Kỳ Co:
Vượt cầu Thị Nại, đến Nhơn Lý rồi thuê cano
đi trong khoảng 20 phút để ra bãi tắm. Giá vé cano từ 350.000đ -
420.000đ/người. Đi theo lộ trình này sẽ giúp bạn được trải nghiệm cảm giác dập
dềnh cùng sóng nước và ngắm nhìn khung cảnh của đảo trọn vẹn hơn.
Nếu bạn bị say sóng thì có thể chọn lộ trình
đường bộ: vượt cầu Thị Nại, đến Bãi đỗ xe Khu du lịch Kỳ Co thì đổi xe, lên xe
trung chuyển của khu du lịch để đến bãi tắm Kỳ Co.
EO GIÓ
Nổi tiếng với vẻ đẹp hoang sơ, thơ
mộng, Eo Gió Quy Nhơn là điểm đến mà ai cũng muốn ghé qua ít
nhất một lần khi du lịch Quy Nhơn. Vậy ghé địa điểm này có khung cảnh nào
đẹp, quán ăn nào ngon. Hãy theo dõi bài viết dưới đây để tìm hiểu thông tin chi
tiết về khu du lịch Eo Gió Quy Nhơn.
1. Vẻ đẹp Eo Gió Quy Nhơn khiến ai cũng phải
“xiêu lòng”
Trong những năm gần đây, du lịch Eo Gió Quy
Nhơn được nhiều người biết đến bởi những bức ảnh “triệu like” trên mạng xã hội.
Hình ảnh Eo Gió Quy Nhơn trong mắt khách du lịch bốn phương là vẻ đẹp tuyệt
diệu mà tạo hóa ban tặng.
Địa chỉ: Lý Lương, Nhơn Lý, Quy Nhơn
Giá vé: 25.000 VNĐ/lượt
Địa chỉ Eo Gió Quy Nhơn chỉ cách thành phố
khoảng 20km, rất thuận tiện cho việc di chuyển và tham quan. Sở dĩ địa danh này
được gọi là Eo Gió là do hình dáng địa lý của khu vực này. Nếu đứng từ mỏm đá
trên cao nhìn xuống, du khách sẽ nhìn thấy một eo biển nhỏ được bao bọc bởi hai
dãy núi xung quanh trông như một vòng tay ôm gọn bãi biển xinh đẹp này. Cũng
bởi vậy mà vẻ đẹp ở đây rất hoang sơ, nhưng lại trữ tình, nên thơ. Từ khung
cảnh đến biển, hay làn nước trong xanh, tất cả đều để lại cho du khách những trải
nghiệm đáng nhớ. Ngoài Eo Gió, bạn có thể tham quan thêm Kỳ Co Quy Nhơn – hòn đảo độc đáo, thú vị.
2. Nơi sở hữu khung cảnh hoàng hôn đẹp nhất
Việt Nam
Đã là tín đồ “săn ảnh” hoàng hôn thì bạn nhất
định không được bỏ qua khung cảnh hoàng hôn ở Eo Gió. Chụp ảnh ở Eo Gió Quy
Nhơn có rất nhiều bức ảnh đẹp nhưng ảnh hoàng hôn có lẽ sẽ là ảnh ấn tượng
nhất.
Khi mặt trời lùi dần về phía Tây cũng là lúc
vùng biển nơi đây chuyển sang màu đỏ cam. Không gian lúc này huyền ảo hơn bao
giờ hết, những làn gió biển thổi mát, những con sóng vỗ rì rào. Chẳng vậy mà
cảnh đẹp hoàng hôn nơi eo biển kỳ vĩ này đã làm nên những áng thơ văn vô cùng
hay.
3. Đường đến Eo Gió Quy Nhơn đẹp tuyệt diệu
Đường đi Eo Gió Quy Nhơn mất khoảng 1 tiếng
đồng hồ nên bạn có thể đi ô tô hoặc xe máy đều thuận tiện và dễ di chuyển. Dù
bạn chọn phương tiện nào thì cảnh đẹp hai bên đường chắc chắn cũng sẽ khiến bạn
ngỡ ngàng và cảm thấy rất thú vị.
Từ trung tâm thành phố Quy Nhơn, bạn sẽ đi
theo lộ trình cung đường sau: Quốc lộ 19 → rẽ phải vào đường Võ Nguyên Giáp →
qua cầu Thị Nại → rẽ vào quốc lộ 19B → rẽ phải vào Nhơn Lý → Eo Gió. Đây là
cung đường lý tưởng và thích hợp nhất cho du khách thích khám phá vẻ đẹp tự
nhiên vì phong cách tuyệt đẹp hai bên đường. Khi đi qua cầu Thị Nại, du khách
bốn phương có thể phóng tầm mắt ra xa để chiêm ngưỡng sắc xanh bao la của khu
đầm này. Hay khi băng qua cầu Thị Nại, bạn sẽ lại bất ngờ với những đồi cát trắng
mịn chạy dài hai bên đường. Chưa đến Eo Gió Quy Nhơn mà cảnh đẹp ở đường đi đã
khiến khách du lịch trầm trồ.
4. Nơi có cung đường đi bộ ven biển giữa lưng
chừng núi
Eo Gió Quy Nhơn có gì mà lại khiến các
bạn trẻ mê mẩn, chụp ảnh check-in nhiều đến vậy? Một trong những lý do chính là
cung đường đi bộ ven biển đẹp hút hồn.
Cung đường đi bộ ven biển này nằm trên lưng
chừng dãy núi khiến ai cũng muốn một lần được đến đây và trải nghiệm. Những bậc
thang được dựng với tay vịn màu đỏ gạch, trắng vừa an toàn lại vừa đẹp mắt.
Đồng thời những bậc thang này còn tôn lên những đường nét trập trùng, khúc
khuỷu của tạo hóa đã ban tặng cho Quy Nhơn.
5. Tọa độ check in “ngàn like” với 1001 góc
sống ảo chất lượng
Là một tín đồ đa mê xê dịch và sống ảo, khi
đến Eo Gió Quy Nhơn bạn đừng quên check-in. Nhiều bạn trẻ đùa rằng: “Chỉ cần
đứng im tại Eo Gió thôi là cũng có ảnh đẹp rồi.” Quả thực là vậy, đến Eo Gió có
cả hàng nghìn góc sống ảo mà góc nào cũng có thể tạo ra được bức ảnh đẹp mê
hồn.
Bạn có thể sống ảo với bãi biển trong xanh,
nước biển trong vắt. Hay chụp ảnh cùng hàng nghìn bậc thang với tay vịn
đầy màu sắc. Hay chỉ đơn giản là hướng tầm mắt về phía biển khơi mênh mông. Để
có bức ảnh mong muốn, mọi thứ bạn cần làm chỉ cần đơn giản, mộc mạc và hoang sơ
như chính nét đẹp mà Eo Gió mang lại.
6. Eo Gió Quy Nhơn – điểm ngắm bình minh vô
cùng nên thơ
Muốn đón bình minh đẹp, ngắm khung cảnh thiên
nhiên tuyệt diệu, bạn cần xuất phát từ trung tâm thành phố Quy Nhơn lúc 4h00.
Thời tiết buổi sáng tại Eo Gió mát mẻ, bạn vừa ngắm được bình minh vừa tận
hưởng được không khí trong lành trong những tia nắng sớm mai.
Cùng ngắm bình minh với “người thương” tại Eo
Gió (Ảnh: Sưu tầm)
Tuy phải dậy sớm nhưng cảnh bình minh tại Eo
Gió quả thực xứng đáng. Bởi nơi đây được mệnh danh là một trong những địa điểm
đón bình minh đẹp nhất tại Việt Nam.
7. Thiên đường hải sản tươi rói cho bạn
tha hồ thưởng thức
Các quán ăn Eo Gió Quy Nhơn rất nhiều, nhưng
không thể không kể đến các món ăn về hải sản. Với lợi thế hải sản tươi ngon và
đa dạng cùng cách chế biến mới mẻ, du khách sau khi thưởng thức hải sản Quy Nhơn đều thích thú.
Dưới đây là các quán ăn, nhà hàng hải sản
ngon ở Eo Gió mà bạn có thể ghé đến thưởng thức:
Coco Jambo: Nhà hàng hải sản view biển đẹp nhất Eo Gió. Coco Jambo ở thôn Lý
Hưng, xã Nhơn Lý – địa điểm rất dễ tìm cho du khách. Với gần 10 món hải sản đa
dạng, tươi ngon cùng quán đẹp, chất lượng phục vụ tốt, Coco Jambo được khách
hàng đánh giá rất cao.
Leng Keng Gió: Được mệnh danh là Vua ghẹ Nhơn Lý với
những món ăn hải sản vô cùng tươi ngon và hấp dẫn. Nhà hàng nằm ngay bên cạnh
bãi đỗ xe Eo Gió với các loại hải sản như: cua huỳnh đế, tôm, ghẹ…
Hoa Biển: Nhà hàng này nằm ở thôn Lý Hòa, xã Nhơn Lý, được du khách hài lòng
về chất lượng đồ ăn. Đồ ăn tươi ngon, chế biến cẩn thận và hương vị vô cùng đặc
trưng.
Tịnh Xá Ngọc Hòa – Phước Sa Tự
Chiêm ngưỡng tượng Phật đôi cao nhất Việt Nam
Được biết đến là vùng đất võ với truyền thống
văn hóa lâu đời, tuy nhiên trong những năm gần đây Bình Định đã và đang thực
hiện hóa việc “biến” những tiềm năng du lịch trở thành điểm mạnh du lịch của
tỉnh. Du lịch Bình Định được ví như “kho báu bị ngủ quên” đang từng bước được
các cấp, các ngành, các đơn vị kinh doanh du lịch “khai quật” để khi du khách
“khám phá” đến phải sửng sốt và thán phục bởi quá nhiều điều hấp dẫn ở nơi đây
mà những vùng đất khác không có được. Sự hòa quyện của thiên nhiên, của đất, của
người đã làm nên bản sắc văn hóa du lịch riêng của mảnh đất địa linh nhân kiệt
này.
Sau một mùa hè sôi động với các sự kiện, lễ
hội và lượng khách du lịch đổ về Quy Nhơn Bình Định nói chung và xã đảo Nhơn Lý
nói riêng tăng đột biến so với các năm trước. Vào lúc này, mùa đông cũng đã
đến, các dịch vụ du lịch biển đảo cũng tạm dừng để nhường chỗ cho du lịch tâm
linh, tìm hiểu khám phá các di tích lịch sử “lên ngôi”, và Tịnh Xá Ngọc Hòa
cũng như Phước Sa Tự là điểm đến lý tưởng để du khách viếng thăm Nhơn Lý vào
thời gian này.
Đây là một ngôi chùa thuộc Bãi Bấc, thôn Lý
Lương, xã Nhơn Lý, TP Quy Nhơn, được xây dựng từ năm 1960 bởi Trưởng lão Thích
Giác An. Hiện nay được trụ trì bởi Đại đức Thích Giác Tri. Theo Đại đức Thích
Giác Tri, khoảng năm 2013, người dân địa phương có nguyện vọng muốn ổn định nơi
thờ cúng ông bà và thuận tiện cho con cháu đi lại thăm nom nhân ngày giỗ kỵ,
Tịnh xá đã đề nghị và được Nhà nước cho phép xây dựng Nhà An Bình theo phương
thức Tịnh xá và đồng bào phật tử cùng đóng góp. Theo thiết kế, công trình này
rộng hơn 100 m2, có thể lưu giữ khoảng 8.000 hũ tro cốt, tổng kinh phí đầu tư
ước khoảng 5 tỉ đồng.
Theo thiết kế, Nhà An Bình cao khoảng 5,2m
xây bằng đá tổ ong kết hợp vớt bê tông cốt thép, sẽ là đế trụ cho Tượng Quan
Thế Âm Bồ Tát hai mặt. Tượng đôi Phật Bà Quan Âm là kiến trúc nổi bật của Tịnh
xá. Tượng cao gần 30m – và là tượng phật đôi cao nhất Việt Nam. Trong đó, một
tượng hướng về phía Nam (cổng chính tịnh xá), màu vàng, đó là Quan Thế Âm Kiết
Tường và một tượng hướng về phía Bắc, màu bạc đó là Quan Thế Âm Nam Hải.
Theo người dân nơi đây truyền miệng nhau
rằng: tượng Quan Thế Âm Kiết Tường màu vàng, có hướng về núi, tượng trưng cho
rừng vàng; còn tượng Quan Thế Âm Nam Hải màu bạc có hướng nhìn ra biển chính là
thể hiện cho biển bạc. Vì vậy người dân nơi đây tin rằng tượng phật đôi sẽ đem
đến cho vùng đất nơi đây, con người nơi đây có một tương lai phát triển phồn
thịnh và an lành.
Về mỹ thuật, tượng đã chắt lọc được các triết
lý, tạo hình từ Tây Tạng (đôi mắt), từ Ấn Độ (ngọn lửa hủy diệt của thần
Shiva), từ Chăm Pa (bích họa), từ Thủy Chân Lạp, và đặc biệt là một giải phẩu
hình thể mang dáng dấp của người Việt mẫu mực…
Thân tượng làm rỗng, gồm nhiều tầng bậc khác
nhau, hai vị Quan Thế Âm Bồ Tát tọa trên đài sen, đứng quay lưng vào nhau. Bên
trong tượng là 2.000 bức tượng Quan Thế Âm cỡ nhỏ, bằng chất liệu đồng, đá,
composite do các phật tử, các vị sư ở tịnh xá đặc vào đó nhằm gửi gắm thông tin
về tịnh xá để cho đời sau nắm rõ.
Nhiều du khách đến đây không khỏi băn khoăn
về tên gọi tịnh xá, và đặt câu hỏi tại sao không phải là chùa mà lại là tịnh
xá. Nguyên nhân bắt nguồn từ cách gọi của người Ấn Độ Phật giáo nói về các tịnh
thất trong các ngôi chùa, là các công trình kiến trúc nhà cửa theo phong cách
Phật giáo dành cho những người tu hành nghỉ ngơi, cầu nguyện, thiền định. Đó là
một nơi riêng biệt dành cho những ngày ẩn dật ngồi thiền của các thầy tu. Tịnh
xá là nơi có thể đến tham quan sau đó nghỉ lại vài ngày vì đây là nơi yên tĩnh,
khác với chùa có chức năng thực hiện hành lễ thì tịnh xá chú trọng vào việc
tĩnh lặng để nghỉ ngơi, tu tâm.
Với thắng cảnh Eo Gió nằm cạnh bên càng làm
tôn thêm vẻ đồ sộ và uy nghiêm của Tượng đôi Phật Bà Quan Âm, và nơi đây ngày
càng thu hút nhiều lượt khách tham quan du lịch tứ phương.
Nếu du khách muốn nghỉ ngơi tại tịnh xá hoặc
muốn nghe thuyết giảng phật pháp hãy nhờ người dân bản địa hoặc hướng dẫn viên
liên hệ trước. Thời gian mở cửa của tịnh xá hầu như cả ngày, nơi đây hoạt động
gần như một ngôi chùa nên các hoạt động sinh hoạt diễn ra bình thường. Du khách
có thể đến đây nghỉ ngơi, đây là địa điểm lý tưởng để tĩnh tâm, suy nghĩ và
thiền.Thông thường thì tịnh xá không thu vé, tùy tâm mỗi người, tịnh xá cũng
thường tham gia, tổ chức các lễ hội, chung tay góp sức trong các hoạt động từ
thiện xã hội, tham gia mô hình “cơm cháo tình thương” trong địa bàn thành phố
Quy Nhơn nên du khách có thể góp một phần vào quỹ từ thiện.
Phước Sa Tự
Phước là phước duyên hội ngộ giữa nhân gian –
giữa hữu tình và Bồ Tát. Sa là cát là sa thạch là sa bồi ý nhiều như cát hà sa…
Hay còn một ẩn nghĩa khác đó là : Phật là phước lồi lên từ cát (Chùa nhặt được
pho tượng lồi lên trên cát tại xóm Lý Hòa vào năm 1919)
Chùa tọa lạc trên một ngọn đồi nằm giữa đồng
cát ở Đông Bắc bán đảo Phương Mai thuộc làng Xương Lý phủ Tuy Phước, nay là
thôn Xương Lý, xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn. Tục gọi là chùa Phật Lồi. Trụ
trì chùa hiện nay là sư thầy Thích Đồng Tín, đời pháp 43 kệ phái Minh Hải Pháp
Bảo, đệ tử Hòa thượng Thị Dực Liễu Không chùa Thiên Bình, được Giáo hội tỉnh bổ
nhiệm làm trụ trì chùa Phước Sa đầu năm 1999 thể theo nguyện vọng của Ban hộ tự
và Phật tử địa phương.
Về vị trí địa lý : Ngôi chùa ngoảnh mặt về
hướng Nam. Bên phải chùa là Đầm Thi Nại bắt đầu từ Đông Phù Cát trải dài đến
đầu hải cảng Quy Nhơn. Chùa dựa lưng vào hòn núi Cấm cây cối tươi tốt quanh
năm. Bên trái chùa là đại dương sớm chiều rì rào sóng vỗ. Chùa được đặt vào nơi
cảnh trí hữu tình, lại có sự tích khá ly kỳ nên hàng năm hấp dẫn nhiều du khách
đến tham quan cùng phật tử mười phương đến thăm viếng.
Du khách đến con đường dọc bờ kè xã Nhơn Lý,
đi đến cuối đường sẽ gặp một bậc đá, leo lên hơn 60 bậc cấp đá thì tới cổng
chùa. Cổng chùa xây gạch, cao khoảng 4m, biển ngạch để ba chữ hiệu chùa bằng
Quốc ngữ: Chùa Phước Sa. Qua khỏi cổng tới tượng đài Quan Âm sái thủy. Tượng
bằng xi măng cao gần 3m, đứng trên chân đế cao hơn 1m, ở giữa sân, tăng thêm vẻ
mỹ quan cho chùa. Sau lưng tượng đài là chánh điện. Chánh điện là một ngôi nhà
ngang, ngang 10m, dọc 6m, cao từ nền lên tới trần là 8m, xây gạch lợp ngói, hai
mái hai chái, trên nóc đắp lưỡng long tranh châu. Trước chánh điện có hè rộng
2m, cao 5m, trên đúc bằng, trước có chấn thủy, ở giữa chấn thủy đắp ba chữ hiệu
chùa bằng Hán tự: 福 沙 寺 – Phước Sa Tự.
Bên trong điện, bệ thờ Phật đặt ở gian giữa.
Trên bệ tôn trí bảo tượng Đức Bổn Sư bằng xi măng cao 1m50 kể cả tòa sen. Hai
bên tôn trí hai pho tượng Quan Âm và Di Lặc bằng sành đều cao khoảng 40cm từ
trong cát lồi lên tại xóm Lý Hòa trong thôn vào năm Kỷ Mùi (1919) và một pho
tượng Chuẩn Đề bằng đồng cao khoảng 40cm cũng lồi lên tại gò đất Lý Hòa vào năm
Ất Dậu (1945).
Trước bệ, trên hương án có tượng Di Đà cao
khoảng 2m đứng giữa hai tượng Hộ Pháp đều cao khoảng 70cm. Tất cả đều bằng xi
măng và đều là tượng hàng khá phổ biến trong vài chục năm nay.
Sau Chánh điện là nhà Tổ. Nhà Tổ song song
với Chánh điện, kích thước như Chánh điện, xây gạch lợp ngói, đứng trên một
chân đế cao hơn Chánh điện mấy phân. Bên trong Chánh điện, bàn thờ Tổ được đặt
ở gian giữa. Giữa bàn thờ có long vị Tổ khai sơn là Hòa thượng Như Từ Tâm Đạt:
Trụ trì chùa Thiên Bình ở An Nhơn và long vị Đại đức Thị Niệm Thiện Giai là vị
trụ trì đầu tiên có long vị thờ tại chùa, có bảo tháp trước chùa.
Kể từ khi bảo tượng Bồ tát Quan Âm xuất hiện ở thôn Xương Lý, đến
nay đã 97 năm (1919-2016), chùa Phước Sa khai sơn đến nay đã 73 năm
(1943-2016), trải qua bao dâu biển của cuộc đời mà bảo tượng vẫn còn đó và chùa
ngày càng nguy nga tráng lệ, dân tình nơi đây: ‘phong ngày càng thuần, tục ngày
càng mỹ’. Nhờ vào sự tín ngưỡng và tin tưởng vào sự chở che, phù hộ của phật mà
đời sống người dân nơi đây ngày càng phồn thịnh. Tin lành đồn xa về sự linh
thiêng cũng như khung cảnh thanh tịnh như tranh vẽ của Phước Sa tự mà thu hút
lượng khách thập phương đến viếng ngày càng đông. Du khách đến đây có thể xin
tá túc qua đêm tại chùa hoặc cũng có thể ở chung nhà với một số phật tử nơi
đây, để trải nghiệm không gian thanh tịnh, lắng nghe sự thuyết giảng và khuyên
bảo của sư trụ trì, đồng thời ‘xõa’ hết sự bôn ba nhộn nhịp của cuộc sống hằng
ngày, lắng đọng, chìm vào hư không của phật giáo nơi đây.
Thời gian qua, ngành du lịch tỉnh đã có nhiều
bước chuyển mình mạnh mẽ với nhiều dự án lớn đã và đang đầu tư. Hầu hết các dự
án ít nhiều đều gắn đến các yếu tố lịch sử, tâm linh. Điển hình là dự án Khu du
lịch lịch sử – sinh thái Tâm linh Chùa Linh Phong với tượng phật ngồi cao 69m
cao nhất Việt Nam, khu thiền viện dưới chân chùa ông Núi. Dự án Khu du lịch
Vinpearl Quy Nhơn cũng dự kiến giữ lại và xây dựng mới một ngôi chùa để phục vụ
nhu cầu tín ngưỡng. Bên cạnh đó các di tích lịch sử, tâm linh cũng đang được
chính quyền tỉnh quan tâm tôn tạo, xây dựng mới như Đàn Tế trời đất, Khu tưởng
niệm cụ Nguyễn Sinh Sắc…Đồng thời Quần thể sân golf, resort, biệt thự nghỉ
dưỡng và giải trí cao cấp FLC Quy Nhơn cũng đã đi vào hoạt động, mong rằng các
ngôi chùa hiện hữu ở xã Nhơn Lý mà tiêu biểu là Tịnh xá Ngọc Hòa và Phước Sa Tự
sẽ được tiếp tục trùng tu, tôn tạo để hình thành thêm nhiều điểm đến độc đáo
hơn nữa, trở thành bản sắc riêng của Bình Định, góp phần phát triển ngành du
lịch tỉnh nhà.
HÒN KHÔ
Hòn Khô Quy Nhơn nổi bật với vẻ đẹp hoang sơ,
bãi cát dài, trắng mịn cùng nước biển xanh trong như ngọc bích. Đây là điểm
dừng chân lý tưởng để du khách khám phá thiên nhiên, tận hưởng không khí trong
lành từ biển cả.
Cùng với Kỳ Co, Eo
Gió, Cù Lao Xanh… thì Hòn Khô Quy Nhơn là một
trong trong những địa điểm đẹp bạn không nên bỏ lỡ khi đi du lịch Quy
Nhơn. Đây là một điểm đến siêu HOT với cảnh đẹp bình yên cùng nhiều trải
nghiệm thú vị, hấp dẫn. Cùng Vinpearl bỏ túi tất tần tật các review Hòn Khô Quy
Nhơn siêu hữu ích.
1. Hòn Khô Quy Nhơn ở đâu, cách trung tâm bao
xa?
Địa chỉ: X. Nhơn Hải, TP. Quy Nhơn, T. Bình Định
Quy Nhơn đang là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng được du khách yêu
thích với cảnh quan thiên nhiên hoang sơ cùng những hoạt động vui chơi, giải
trí hấp dẫn. Khi nhắc đến các cảnh đẹp, địa danh nổi tiếng Quy Nhơn không thể
không nhắc đến Hòn Khô. Nơi đây nằm cách trung tâm Quy Nhơn khoảng 16km, rất
thuận tiện để ghé thăm.
Hòn Khô Quy Nhơn đúng như tên gọi là một hòn đảo không
có gì ngoài những dãy núi đá cheo leo, khô khốc đang cố ngoi ra biển. Trên đảo
Hòn Khô Quy Nhơn toàn là những khối đá lớn được xếp chồng lên nhau tạo nên một
cảnh quan hoang sơ và bình yên đến lạ. Ngoài ra, bãi tắm Hòn Khô khiến du khách
bốn phương ngất ngây bởi nước biển xanh trong như ngọc bích và còn được bao bọc
bởi các rạn san hô muôn màu.
2. Du lịch Hòn Khô mùa nào đẹp?
Hòn Khô là một điểm đến bạn không nên bỏ lỡ
khi có dịp đến Quy Nhơn. Tuy nhiên, du lịch Hòn Khô Quy Nhơn mùa nào đẹp để có
thể chiêm ngưỡng hết vẻ đẹp của hòn đảo này thì không phải ai cũng biết. Cùng
Vinpearl tìm hiểu chi tiết từng mùa tại Hòn Khô và giúp bạn giải đáp du lịch
Hòn Khô mùa nào đẹp nhất.
2.1. Mùa khô (tháng 4 đến tháng 9)
Tháng 4 - tháng 9 là thời điểm mùa khô tại
Quy Nhơn, lúc này trời ít mưa, biển êm ả, biển không bị động và không có bão.
Chính vì vậy, du khách có thể ghé Hòn Khô Quy Nhơn vào khoảng thời gian này để
chuyến vui chơi và khám phá được thuận lợi, trọn vẹn.
2.2. Mùa rong mơ (tháng 5 đến tháng 7)
Ngoài mùa khô từ tháng 4 - tháng 9, bạn có
thể ghé Hòn Khô vào mùa rong mơ từ tháng 5 - tháng 7. Lúc này, Hòn Khô như một
cánh đồng vàng dưới mặt biển trong xanh khiến bất kỳ ai cũng sẽ say lòng.
3. Cách di chuyển đến Cù lao Hòn Khô
Nằm cách trung tâm thành phố Quy Nhơn khoảng
16km, để di chuyển đến Hòn Khô du khách có thể tham khảo lộ trình đường đi sau:
3.1. Từ trung tâm TP. Quy Nhơn đi làng chài
Nhơn Hải
Để đến được đảo Hòn Khô Quy Nhơn, trước tiên
du khách cần di chuyển đến làng chài Nhơn Hải theo tuyến đường sau: Trung tâm
TP. Quy Nhơn → Cầu Thị Nại → Bán đảo Phương Mai → Rẽ phải chạy dọc theo đồi cát
→ Làng chài Nhơn Hải → Di chuyển khoảng 3km đường dốc hướng ra biển du khách sẽ
nhìn thấy Hòn Khô.
3.2. Từ làng chài Nhơn Hải đi đảo Hòn Khô
Theo kinh nghiệm du lịch Hòn Khô Quy Nhơn, du
khách có thể lựa chọn thuyền thúng hoặc cano để ra đến đảo Hòn Khô Quy Nhơn.
Thời gian di chuyển trên tàu, thuyền khoảng 10 - 15 phút nên rất nhanh thôi bạn
sẽ được ngắm cảnh Hòn Khô tuyệt đẹp.
4. Những trải nghiệm hấp dẫn tại Hòn Khô Quy
Nhơn
Dưới đây là TOP 6 trải nghiệm thú vị bạn
không nên bỏ lỡ nếu có dịp đến Hòn Khô Quy Nhơn:
4.1. Khám phá vẻ đẹp của Hòn Khô
Hòn Khô Quy Nhơn mang vẻ đẹp hoang sơ do chưa
có nhiều sự đầu tư du lịch nghỉ dưỡng nên rất được du khách yêu thích. Hòn Khô
có kết cấu địa chất đặc biệt khi có những hình vòng cung nối tiếp nhau, tựa
lưng vào dãy núi tạo nên cảnh quan hùng vĩ và thơ mộng. Dừng chân tại đây, chắc
chắn du khách sẽ bị xiêu lòng với trước vẻ đẹp tuyệt mỹ của Hòn Khô.
4.2. Lặn ngắm san hô
Một trải nghiệm bạn không nên bỏ lỡ khi đến
Hòn Khô chính là lặn ngắm san hô. Với những rạn san hô xinh đẹp, nhiều màu sắc,
du khách sẽ có dịp được khám phá thế giới dưới nước lung linh, huyền ảo.
4.3. Bơi lội, tắm biển
Hòn Khô là một trong những bãi biển
Quy Nhơn có màu xanh trong ngọc bích cực đẹp và là địa điểm lý tưởng
đến du khách bơi lội, tắm biển. Với làn nước trong vắt, có thể nhìn xuyên tới
đáy, tắm biển tại Hòn Khô chắc chắn sẽ mang lại cho bạn nhiều trải nghiệm thú
vị.
5. Đi Hòn Khô ăn gì?
Ngoài cảnh đẹp đến nao lòng, Hòn Khô còn níu
chân du khách bốn phương bởi ẩm thực đa dạng, tươi ngon và mang hương vị đặc
trưng của vùng biển. Cùng khám phá những món ăn nhất định bạn nên thử khi đến
Hòn Khô dưới đây:
5.1. Hải sản
Một trong những đặc sản Quy Nhơn tươi
ngon, chất lượng không thể không kể đến hải sản. Bạn có thể thưởng thức cá mú,
cá chình, cá dìa, tôm hùm, ốc… được chế biến thơm ngon, hấp dẫn ở các nhà bè
với giá cả cực kỳ phải chăng.
5.2. Nhum (cầu gai)
Nhum là loại động vật thân tròn có gai màu
đen. rất giàu dinh dưỡng và là đặc sản nổi tiếng của Quy Nhơn. Nhum được chế
biến thành nhiều món ngon khác nhau như nhum nướng mỡ hành, nhum tái chanh… với
hương vị đặc trưng khiến thực khách ăn một lần là nhớ mãi.
5.3. Bánh xèo mực
Bánh xèo mực với vỏ bánh giòn, vàng ruộm cùng
phần nhân mực tươi ngon đã đốn gục trái tim của biết bao du khách. Đến Hòn Khô
nếu không thưởng thức món bánh xèo mực ngoài giòn, trong mềm thấm vị thì quả
thực là đáng tiếc.
CÙ LAO XANH
Cù Lao Xanh hay còn có tên gọi khác là đảo Vân Phi, là một hải đảo gần với vịnh Xuân
Đài, xã Nhơn Châu, TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Cù lao này nằm cách bờ biển
nội thành Quy Nhơn khoảng 24 km về phía tây bắc và bờ biển tỉnh Phú Yên 22 km
về phía tây. Với tổng diện tích gần 365 ha, cù lao được chia thành 3 thôn là
Thôn Tây (trung tâm), Thôn Đông và Thông Trung.
1.Đôi nét về Cù Lao Xanh
Từ xa xa, du khách có thể nhìn thấy một hòn
đảo xanh ngắt giữa biển. Làng chài của ngư dân thì nép mình dưới chân núi, bên
bờ cát trắng trải dài. Trên đỉnh núi là ngọn hải đăng uy nghiêm, sừng sững, nổi
bật giữa biển trời bao la. Chính khung cảnh thanh bình, yên ả đó đã tạo nên một
điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn tận hưởng trọn vẹn cảnh sắc thiên nhiên.
2. Đi Cù Lao Xanh vào khi nào
Cù lao nằm giáp ranh giữa Bình Định và Phú
Yên nên hình thái thời tiết cũng tương đồng với 2 tỉnh thành trên. Bạn có thể
ghé thăm nơi đây vào bất kỳ thời điểm nào trong năm, ngoại trừ mùa mưa bão.
Thời gian lý tưởng nhất để đến cù lao là khoảng từ tháng 2 – tháng 6. Lúc này,
thời tiết cực kỳ đẹp, có nắng, biển lặng, nước biển trong xanh thích hợp cho
các hoạt động tắm biển và lặn ngắm san hô.
Ngược lại, bạn không nên đi du lịch từ tháng
10 – tháng giêng năm sau. Đây là thời điểm cù lao chịu ảnh hưởng của gió mùa
đông bắc, mưa nhiều, sóng lớn, biển động. Ngoài ra, tàu thuyền cũng không được
phép ra khơi để lên đảo. Nếu du khách muốn trải nghiệm không khí lễ hội và văn
hóa tín ngưỡng của người dân trên đảo thì có thể đến đây vào tháng 3 âm lịch –
thời điểm diễn ra Lễ hội Cầu Ngư.
3. Cách di chuyển từ TP.Quy Nhơn ra Cù Lao
Xanh
Từ TP. Quy Nhơn, du khách có thể ra Cù Lao
Xanh các bằng loại phương tiện dưới đây:
Tàu gỗ
Mỗi ngày sẽ có 2 chuyến tàu gỗ đi từ cảng Hàm
Tử ra đảo Nhơn Châu. Tàu xuất phát vào 2 khung giờ là 8h và 13h, chuyến ngược
lại là 7h và 15h. Giá vé là 30.000 VND, bán tại cảng Hàm Tử. Ngoài ra, du khách
còn phải chi thêm 3.000 VND để thuê đò nhỏ trung chuyển vào đảo.
Cano
Ngoài tàu gỗ, bạn còn có thể chọn cano để di
chuyển ra đảo. Đây là phương tiện giúp bạn tiết kiệm thời gian di chuyển,
thường nằm trong tour trọn gói do cư dân trên đảo kinh doanh. Cano cao tốc chỉ
mất khoảng 25 phút để ra đến đảo, giá vé 200.000 VND/ chiều và 350.000 –
400.000 VND/ 2 chiều. Cano ghép thường hoạt động trong các khung giờ như 8h –
9h và 14h – 15h.
4. Ăn gì khi đi du lịch trên đảo
Ẩm thực tại Cù Lao Xanh là một hệ thống về
quan điểm truyền thống và thực hành nấu ăn. Nơi đây nổi tiếng với nghệ thuật
chế biến hải sản đơn giản nhưng hương vị lại vô cùng đặc sắc. Đến với cù lao
này, du khách nhất định phải thử các món ăn đặc sản sau đây:
Cua đá
Cua đá là loài cua sống trong các hốc đá ẩm
ướt trên đảo. Thịt cua ngọt thanh, dai béo, càng cua lớn và nhiều gạch. Cách
chế biến phổ biến nhất là hấp bia, nướng than hồng hay cầu kỳ hơn là rang me.
Ốc biển
Ốc biển tại cù lao còn có tên gọi là ốc mặt
trăng, ốc mắt ngọc hay ốc xà cừ. Đây là loài ốc đặc trưng có thể chế biến thành
nhiều món khác nhau như nướng bơ, hấp gừng, xào xả ớt chấm muối ớt xanh.
Bánh xèo hải sản
Đi du lịch Cù Lao Xanh, bạn sẽ có dịp thưởng
thức món bánh xèo hải sản ngon trứ danh. Nhân bánh xèo thường là các loại hải
sản như mực, cá cơm… Trong đó, bánh xèo cá cơm là món ngon nổi tiếng với hương
vị cực kỳ lạ miệng.
Canh rong biển
Rong biển được đánh bắt từ biển sẽ được ngư
dân nơi đây chế biến thành món canh tươi mát, đậm chất biển khơi. Hương vị món
ăn vô cùng đặc biệt, khác hẳn với canh rong biển của người Hàn Quốc.
Rượu dứa rừng
Rượu dứa rừng cù lao mang hương vị ngọt
thanh, là đặc sản của vùng đất này. Bên cạnh đó, rượu dứa rừng còn rất tốt cho
sức khỏe, thích hợp để du khách mua về làm quà.
5. Các điểm tham quan du lịch tại Cù Lao Xanh
Là hòn đảo du lịch nổi tiếng của Việt Nam, Cù
Lao Xanh có khá nhiều địa điểm cho du khách tham quan, khám phá. Đi du lịch
tại hòn đảo này, bạn nên ghé thăm các tọa độ sau:
Cột Cờ Thanh Niên
Cột cờ thanh niên là cột cờ được xây dựng bởi
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội sinh viên Việt Nam. Công trình được khánh thành
vào ngày 22/08/2015, có ý nghĩa về mặt chủ quyền và là niềm tự hào của người
dân biển đảo. Ngoài ra, đây còn là 1 trong 7 cột cờ Tổ Quốc tiêu biểu được dựng
trên các đảo ở nước ta.
Hải Dăng Plogam Bir
Hải đăng Plogam Bir là một trong những địa
điểm thu hút khách du lịch nhất ở Cù Lao Xanh. Ngọn hải đăng này được
xây dựng từ thời Pháp thuộc, có tuổi đời cả trăm năm. Công trình được xây dựng
hoàn toàn bằng đá, sơn màu đen và trắng tạo thành 3 phần nổi bật. Với chiều cao
119 m so với mực nước biển, hải đăng có thể chiếu xa đến tận 50 km.
Bãi Gala
Bãi Gala là điểm cắm trại và dã ngoại được
các bạn trẻ cực kỳ yêu thích tại Cù Lao Xanh. Mặt biển êm đềm, trong
xanh bên bờ cát trắng là background check – in “siêu xinh” dành cho bạn. Ngoài
ra, đến đây, bạn còn có thể tham gia vào hoạt động ngắm san hô.
Mũi Hoàng Bằng
Mũi Hoàn Bằng Cù Lao Xanh là phần nhô ra so
với biển cùng nhiều tảng đá lớn nhỏ khác nhau. Địa điểm này chưa được khai thác
nhiều nên dải biển còn rất sạch. Khung cảnh thiên nhiên hoang sơ biển trời chắc
chắn sẽ mang đến cho bạn những tấm ảnh “sống ảo” cực đẹp.
BẢO TÀNG QUANG TRUNG
Bảo tàng Quang Trung xây dựng tại làng Kiên
Mỹ, ấp Kiên Thành, phủ Quy Nhơn (nay là Khối I, thị trấn Phú Phong, huyện Tây
Sơn, tỉnh Bình Định) vào ngày 12.12.1977 và khánh thành vào ngày 01.02.1979
nhân kỷ niệm 190 năm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa (1789 - 1979). Với nhiều
lần trùng tu nâng cấp, từ xây dựng cơ bản, chỉnh lý nội dung trưng bày đến quy
hoạch tổng thể mở rộng không gian phù hợp với từng giai đoạn phát triển của Bảo
tàng. Đến năm 2014, diện tích khuôn viên Bảo tàng được mở rộng gần 18ha bao gồm:
phía Nam đến sát bờ bắc Sông Côn bao cả khu di tích bến Trường Trầu, phía Bắc
mở rộng thêm 2,4ha đến gần di tích Gò Đá Đen. Tất cả hài hòa trong tổng thể
không gian văn hóa Di tích Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt, Tượng đài Hoàng đế Quang
Trung, Nhà biểu diễn nhạc võ Tây Sơn, Nhà Rông văn hóa các dân tộc Tây Nguyên.
Điểm nổi bật của Bảo tàng Quang Trung là xây dựng tại di tích quê hương ba anh
em nhà Tây Sơn còn lưu giữ những yếu tố gốc đó là Vườn nhà cũ, Giếng nước xưa,
Cây Me cổ thụ trên 200 năm tuổi và Lễ hội Đống Đa tạo sự gắn kết giữa Bảo tàng
và Di tích.
Bảo tàng Quang Trung là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc
Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Bình Định, với chức năng nghiên cứu, giáo dục khoa
học lịch sử thông qua các hoạt động chuyên môn nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê,
bảo quản, trưng bày, giới thiệu phục vụ công chúng nhằm bảo tồn, phát huy các
giá trị di sản văn hóa thời Tây Sơn và anh hùng dân tộc Hoàng đế Quang Trung -
Nguyễn Huệ nhằm giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ người Việt Nam.
Bảo tàng Quang Trung được xếp hạng II theo Quyết định số 1783/QĐ-CTUBND ngày
18.8.2008 của Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định. Thực hiện nhiệm vụ chính trị mở cửa
phục vụ khách tham quan 30 ngày/tháng, kể cả các ngày Lễ, Tết, có bán vé thu
phí, lệ phí tham quan và thực hiện chế độ tự chủ một phần kinh phí từ nguồn thu
đơn vị sự nghiệp. Hệ thống trưng bày Bảo tàng theo tiến trình lịch sử của phong
trào Tây Sơn thế kỷ XVIII với các chủ đề: Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam
trước khởi nghĩa Tây Sơn; Nguồn gốc quê hương, gia tộc; Giai đoạn chuẩn bị khởi
nghĩa; Chống các thế lực phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn thống nhất đất nước;
Chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc, trọng tâm là chiến thắng Quân Xiêm và
đại phá quân Thanh; Công cuộc xây dựng đất nước của vương triều Tây Sơn; Vua
Quang Trung trong lòng dân tộc.
Năm 2016 - 2018, Nhà trưng bày Bảo tàng Quang
Trung được đầu tư nâng cấp, mở rộng diện tích trưng bày lên 2.800m2. Hệ thống
trưng bày được bổ sung hoàn chỉnh, với trang thiết bị hiện đại, trưng bày khoa
học và thẩm mỹ, áp dụng các giải pháp thiết kế mỹ thuật trên những chất liệu
mới, hệ thống tranh hoành tráng (với chất liệu sơn dầu), xây dựng chương trình
phần mềm số hóa hiện vật và phòng chiếu phim 3D hiện đại để trình chiếu
phim: “Giai đoạn tụ nghĩa của phong trào Tây Sơn”; “Chiến thắng Rạch Gầm –
Xoài Mút” và “Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa”...,trang bị hệ thống máy tính tra
cứu thông tin quảng bá các di tích, danh thắng của tỉnh…, nhằm đáp ứng nhu cầu
hưởng thụ văn hóa tinh thần ngày càng cao của du khách. Hàng năm, Bảo tàng
Quang Trung đón tiếp và phục vụ trên 150.000 lượt du khách trong nước và quốc
tế đến tham quan, nghiên cứu và học tập, đặc biệt là Lễ hội Đống Đa có năm lên
đến 30.000 lượt khách về dự hội.
Bảo tàng Quang Trung quản lý các di tích: Khu di tích quốc
gia đặc biệt Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt; Đền thờ Đô đốc Bùi Thị Xuân; Đền thờ Đại
tư đồ Võ Văn Dũng; Đền thờ Song thân Tây Sơn Tam Kiệt tại di tích quê mẹ các
thủ lĩnh Tây Sơn; Khu di tích Đài Kính Thiên; Khu tưởng niệm cụ Nguyễn Sinh Sắc
tại di tích huyện đường Bình Khê; Đền thờ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng. Ngoài
nhiệm vụ chuyên môn, hàng năm Bảo tàng Quang Trung còn tổ chức nghi thức dâng
hoa, dâng hương, tiếp đón các đoàn đại biểu lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Bộ,
Ban, Ngành Trung ương, lãnh đạo các Tỉnh, Thành phố trong cả nước đến tham
quan, viếng hương tại Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt, đã để lại những dòng bút tích
đầy cảm xúc và tự hào dân tộc. Tổ chức các ngày Lễ giỗ kỵ các danh nhân, danh
tướng của Triều đại Tây Sơn, đặc biệt là Lễ giỗ kỷ niệm Ngày mất Hoàng đế Quang
Trung vào ngày 29 tháng 7 âm lịch hàng năm, để nhân dân và du khách đến viếng
hương thể hiện lòng thành kính, tưởng nhớ và tri ân công lao to lớn của Hoàng
đế Quang Trung - Nguyễn Huệ trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của
dân tộc.
Đến với Bảo tàng Quang Trung, du
khách viếng hương tại Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt, tham quan Nhà trưng bày các tư
liệu hiện vật thời Tây Sơn, thưởng thức chương trình biểu diễn nhạc võ cổ
truyền Tây Sơn - Bình Định, đây là nét văn hóa đặc sắc, di sản văn hóa phi vật
thể thời Tây Sơn được Bảo tàng lưu truyền và phát huy giá trị. Đó là nhạc lễ
trống trận Tây Sơn, ra đời từ phong trào Tây Sơn mang khí phách hào hùng của
dân tộc. Bộ trống sử dụng 12 chiếc tượng trưng thập nhị can chi với tiết tấu
chia làm ba hồi: Xuất quân, xung trận hãm thành và khúc khải hoàn mừng chiến
thắng. Đi cùng với nền nhạc trống là phần biểu diễn võ thuật cổ truyền Tây Sơn
– Bình Định gồm các bài võ trong 18 môn binh khí Tây Sơn và diễn tấu cồng
chiêng Tây Nguyên, thể hiện nét văn hóa các đồng bào dân tộc Tây Nguyên
như: Bana, Chăm H’roi, Jarai, Êđê…nơi ba anh em nhà Tây Sơn dựng cờ khởi
nghĩa. Đây là nét văn hóa riêng của Bảo tàng để du khách tham quan, trải nghiệm
và tham quan nhà Rông văn hóa các dân tộc Tây Nguyên.
Để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ
văn hóa ngày càng cao của công chúng, trong thời gian tới Bảo tàng Quang
Trung không ngừng nỗ lực, đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động của Bảo tàng gắn với phát triển du lịch, hướng tới mục tiêu phục vụ tốt
nhất cho công chúng. Bảo tàng Quang Trung sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn, đầy ý
nghĩa đối với du khách khi đến Bình Định.
CHÙA THẬP THÁP
Chùa Thập Tháp Di Đà tọa lạc ở thôn Vạn
Thuận, phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Theo quốc lộ I từ Quy
Nhơn ra Quảng Ngãi, qua khỏi phường Đập Đá, đến cầu Vạn Thuận, có con đường bên
trái khoảng 200m dẫn vào chùa.
Tên chùa “Thập Tháp” là
nguyên trước đây trên khu đồi này có 10 ngôi tháp Chăm, sau bị sụp đổ. Tên “Di
Đà” là danh hiệu đức Phật giáo chủ cõi Cực lạc. Di Đà cũng có nghĩa là lý tánh,
bản giác của chúng sinh. Tập hợp các ý nghĩa trên, tổ đình mang tên Thập Tháp
Di Đà Tự.
Chùa tổ đình Thập Tháp Di
Đà gắn với tên tuổi vị khai sơn là Thiền sư Nguyên Thiều. Nhiều tư liệu ngày
nay cho biết Ngài họ Tạ, tự là Hoán Bích, người huyện Trình Hương, phủ Triều
Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Ngài sinh năm Mậu Tý (1648), năm 19 tuổi
xuất gia ỏ chùa Báo Tự. Năm 1677, Ngài theo thuyền buôn của người Trung Quốc
đến phủ Quy Ninh, nay thuộc tỉnh Bình Định, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 28
km, dựng thảo am thờ Phật A Di Đà. Năm 1683, chùa đã dùng gạch đá của 10 ngôi
tháp đổ dựng lên ngôi chùa.
Chùa đã trải qua 16 đời
truyền thừa với nhiều vị thiền sư danh tiếng như: Thiền sư Liễu Triệt, Thiền sư
Minh Lý, Thiền sư Phước Huệ … Thiền sư Phước Huệ đã được tôn làm Quốc sư. Ngài
đã được mời vào giảng kinh trong hoàng cung nhà Nguyễn từ đời vua Thành Thái
đến vua Bảo Đại, và giảng dạy Phật pháp ở Phật học đường Trúc Lâm và Tây Thiên
(Huế) từ năm 1935.
Từ ngoài vào, đi dọc theo hồ sen đến cổng chùa, đó là hai
trụ biểu vuông cao, trên đặt hai tượng sư tử ngồi uy nghi, nối một vòng cung,
phía trên có gắn hai chữ “Thập Tháp”. Sau cổng là tấm bình phong, mặt đắp nổi
long mã phù đồ đặt trên bệ chân quỳ.
|
Ngôi chánh điện do Thiền sư Liễu Triệt cho trùng kiến vào
năm 1749. Ngôi chánh điện ngày nay mái thẳng, lợp ngói âm dương, trên nóc có
lưỡng long tranh châu. Phật điện được bài trí tôn nghiêm, chính giữa thờ tượng
Tam Thế Phật, Chuẩn Đề, Ca Diếp, A Nan; khám thờ Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát
Địa Tạng đặt hai gian hai bên điện Phật; hai vách tả hữu đặt tượng Thập Bát La
Lán, tượng Thập Điện Minh Vương, Hộ Pháp, Tổ sư Đạt Ma và Tổ sư Tì Ni Đa Lưu
Chi. Hầu hết các tượng thờ đều được tạc vào thời Thiền sư Minh Lý trụ trì
(1871-1889).
Chùa đã được chúa Nguyễn
Phúc Chu ban tấm biển “Sắc Tứ Thập Tháp Di Đà Tự” treo giữa cửa chính ngôi
chánh điện, Hòa thượng Mật Hoằng trùng khắc lại năm 1821. Đại hồng chung (đúc
năm 1893) và trống lớn được đặt ở hai đầu hành lang.
Phía sau chánh điện có
tấm bia ghi bài minh Sắc tứ Thập Tháp Di Đà Tự bi minh do cư sĩ Dương Thanh Tu
biên soạn, Hòa thượng Minh Lý lập năm 1876.
Nhà phương trượng nằm sau
ngôi chánh điện do Quốc sư Phước Huệ cho xây vào năm 1924. Nhà Tổ ở phía Nam,
nối ngôi chánh điện và nhà phương trượng, thờ Tổ khai sơn Nguyên Thiều và chư
vị trụ trì, chư Tăng quá cố và chư Phật tử quá vãng. Đối diện nhà Tổ là giảng
đường, ở đây có bảng gỗ ghi bài “Thập Tháp Tự Chí” do Thị giảng Học sĩ phủ An
Nhơn Võ Khắc Triển soạn năm 1928, ghi lại lịch sử khai sáng, quá trình xây dựng
và truyền thừa của ngôi tổ đình Thập Tháp.
Đặc biệt, Báo Bình Định cho biết, chùa còn lưu giữ 2.000
bản khắc gỗ dùng in kinh Di Đà sớ sao, Kim Cang trực sớ, Pháp Hoa khóa chú … Bộ
Đại Tạng Kinh do Tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ cúng dường còn 1.200 quyển
kinh, luật, luận và ngữ lục. Chùa còn lưu giữ bộ Đại Tạng Kinh Cao Ly và bộ Đại
Tạng Kinh Đài Loan.
Vườn tháp Tổ nằm ở phía
Bắc với 20 ngôi tháp cổ kính an trí nhục thân của các vị trụ trì và chư tôn túc
trong chùa. Sau chùa, còn có tháp Bạch Hổ và tháp Hội Đồng
Chùa đã được Bộ Văn hóa
công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Chùa Thập Tháp Di Đà là ngôi
tổ đình danh tiếng vào bậc nhất ở miền Trung.
KHU DU LỊCH SINH THÁI HẦM HÔ
Khu du lịch sinh thái Hầm Hô Rosa Alba tọa
lạc tại xã Tây Phú, huyện Tây Sơn, cách thành phố Qui Nhơn 50km về phía Tây
Bắc, cách Bảo Tàng Quang Trung 5km. Là một điểm tham quan lý tưởng không thể bỏ
qua của du khách khi đến với quê hương Bình Định, miền đất địa linh nhân kiệt.
Giữa ngút ngàn của
rừng xanh dưới chân dãy Trường Sơn hùng vĩ. Hầm Hô một Danh Thắng thiên nhiên
tuyệt mỹ, một điều kỳ diệu của tạo hóa với khúc sông Trời Lấp, với Hòn Chuông,
Hòn Bóng, với Đá Thành, Bàn Cờ Tiên, Dấu Chân Khổng Lồ và một hệ sinh thái rừng
đa dạng.
Đến với Khu du lịch Hầm Hô Rosa Alba, du khách như được trở về với thiên nhiên
hùng vĩ, được đắm mình trong thế giới Bồng lai tiên cảnh và như được trút bỏ
mọi lo toan của cuộc sống hiện đại.
Trong thời gian qua Khu du lịch sinh
thái Hầm Hô Rosa Alba đã không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng phục vụ.
Với đội ngũ nhân viên được đào tạo chuyên nghiệp, có kinh nghiệm, với phong
cách phục vụ lịch sự sẽ để lại ấn tượng trong lòng du khách.
Bên
cạnh đó chúng tôi đã đầu tư xây dựng nhiều hạng mục công trình phục vụ du khách
như:
* Nhà nghỉ Hầm
Hô Rosa Alba với tiện nghi đầy đủ, giá cả hợp lý.
* Nhà hàng Hoa
Lộc Vừng với sức chứa hơn 300 khách, cùng với hệ thống nhà hàng hiện có sẽ
đáp ứng mọi nhu cầu của du khách.
* Cùng các dịch
vụ khác như:
Đạp xe trên nước, nhà
sàn,câu cá thư giản, lều bạt nghỉ trong ngày và qua đêm dưới tán cây rừng dọc
theo hai bờ sông, bơi thuyền thể thao, tắm suối trong làn nước mát lạnh của
thiên nhiên ban tặng, câu cá thư giãn, chèo thuyền trên sông Kút, đốt lửa trại,
nghỉ võng dưới tán cây rừng đại ngàn… sẽ đem lại sự sảng khoái cho du khách.
Với phong thái phục
vụ và giá cả hợp lý chắc chắn quý khách sẽ hài lòng khi đến tham quan Khu du
lịch sinh thái Hầm Hô.
CÔNG TY CP DU LỊCH HẦM HÔ ROSA ALBA
Địa chỉ: Thôn Phú Mỹ, Xã Tây Phú, Huyện Tây
Sơn, Tỉnh Bình Định
Văn phòng: 0256.3880.860
Nhà Hàng: 0256.2475.273
Hotline: 0862577077
Email: hamhorosaalbatourist@gmail.com
Chuyên đề
HÀN MẠC TỬ
Nói đến Hàn Mạc Tử là nói đến một dòng thơ
lãng mạn, hiện đại của Việt Nam, là người khởi xướng ra trường thơ loạn, trường
thơ điên. Ong tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22/09/1912 tại làng Lệ
Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Ông có duyên với bốn chữ Bình : ông sinh tại Quảng
Bình, làm báo tại Tân Bình, có người yêu tại Bình Thuận và mất tại Bình Định.
Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút
danh của ông. Ong có tài năng làm thơ từ rất sớm. Ong cũng đã từng gặp gỡ Phan
Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sĩ này. Ong được Phan Bội Châu giới
thiệu bài thơ “ Thức khuya” của mình lên một tờ báo.
Vào năm 1932 bước vào đời làm việc tại sở đạc
điền Quy Nhơn và vào năm ấy ông có người yêu đầu tiên là Hoàng Thị Kim Cúc,
người gốc Huế. Nhưng vì tính tình nhút nhát nên ông chỉ dám bày tỏ tình cảm của
mình qua bài thơ Hồn Cúc :
“… Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá
Dám ôm hồn Cúc ở trong sương …”
Nhưng năm 1988 Kim Cúc bị tai nạn giao thông
tại TPHCM, sau đó được đưa về Huế và mất tại đó. Có thể nói đám tang của bà lớn
nhất ở Huế từ trước đến nay vì bà là Phó
ban hướng dẫn TW gia đình Phật tử VN.
Sau này, ông được hội Tây Du giới thiệu đi
học nước ngoài nhưng vì bọn mật thám biết ông có quan hệ mật thiết với cụ Phan
Bội Châu nên đã gạch tên trong danh sách du học. Chính vì vậy ông quyết định
lên Sài Gòn lập nghiệp, năm đó ông được 21 tuổi.
Lên Sài Gòn ông là phóng viên phụ trách trang
thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi
lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan
Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người.
Và bài thơ Phan Thiết,Phan Thiết ra đời :
“ …Ta lang thang tìm đến chốn lầu trăng
Lầu Ong Hoàng người thiên hạ đồn vang
Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết
Oi trời ơi ! Là Phan Thiết ! Phan Thiết
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi
Ta đến nơi nường ấy vắng lâu rồi
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình chưa phỉ
Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi trăng
Ta vãi tung thơ lên tận sông hằng
Thơ phép tắc bỗng kên rên thống thiết
Hỡi Phan Thiết ! Phan Thiết!
Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư”
Ít lâu sau, ông mắc bệnh phong , một căn bệnh
nan y thời đó. Ong bỏ tất cả quay về Quy Nhơn. Trong thời gian ông ở Quy Nhơn
ông đã cho ra tập thơ Gái Quê. Và Mai Đình là người con gái ở Thanh Hóa, khi
đọc tập thơ Gái Quê đã đem lòng yêu mến ông. Khi Hàn đang bệnh Mai Đình thường
xuyên ra thăm và chăm sóc ông. Nhưng cùng thời gian này ông đang quen Ngọc
Sương, là dì ruột của Mộng Cầm.
“ Ta
đề chữ Ngọc trên tàu chuối
Sương ở bên thềm chảy mãi thôi”
Nhưng hai mối tình này không đi sâu vào lòng
Hàn Mạc Tử như mối tình ông dành cho Mộng Cầm. Khi Hàn mất Mai Đình đau đớn làm
thơ với nội dung muốn chết theo Hàn nhưng vì còn bận khánh chiến, trả nợ với
non nước nên với hên với Hàn rằng :
“Bao giờ tổ quốc toàn thắng
Là lúc tìm anh dưới suối vàng”
Sau này kết thúc kháng chiến Mai Đình đã lập
gia đình với một vị tướng trong QĐNDVN. Người này rất hiểu và trân trọng tình
yêu của Mai Đình với Hàn Mạc Tử.
Vào cuối cuộc đời, bệnh ông ngày càng nặng,
người yêu thì chia xa, ông đau khổ về tinh thần lẫn thể xác. Chính vì thế mà
nhà văn Trần Thanh Địch muốn an ủi bạn mình bằng cách giới thiệu cho Hàn Mạc Tử
một người yêu thơ hàn, nàng tên Thương Thương, người Huế, gọi Trần Thanh Địch
bằng chú. Những bức thư tình Thương Thương
gửi cho Hàn hoàn toàn do Trần Thanh Địch tự phác họa ra. Hàn Mạc Tử cứ
ngỡ mình đang yêu thật sự. Từ đó khoái cảm về mặt tinh thần mà sáng tác ra những
vần thơ nổi tiếng.
“Chiều nay tàn tạ hồn hoa
Nhớ Thương Thương qúa, xót xa tâm bào”
Hàn Mạc Tử sáng tác vở kịch “ Quần Tiên Hội”
có nhân vật chính là Thương Thương trong tưởng tưởng. Khi anh của Thương Thương
phát hiện , tức giận ngăn cấm và vở kịch đã bị bỏ dở nửa chừng. Sau khi Hàn mất
có một người cùng cảnh ngộ như Hàn đã viết tiếp vở kịch này và được giới nghệ
sĩ đồng tình.
Ngày 20/09/1940 bệnh của Hàn Mạc Tử ngày càng
nặng. Ong được đưa vào bệnh viện phong Quy Hoà nhưng sau 52 ngày chữa trị ông
đã qua đời. Khi ông mất không hề có một người thân nào bên cạnh mà chỉ có các y
bác sĩ.
Để tưởng nhớ một nhà thơ lớn của đất nước,
nhạc sĩ Trần Thiện Thanh và một số văn nghệ sĩ đã dựng đài tưởng niệm ông với
hình tượng một cây viết và quyển sách, đồng thời tại trại phong Quy Hoà vẫn còn
giữ một phòng làm phòng lưu niệm nhà thơ Hàn Mạc Tử.
Cuộc đời của Hàn được biết đến với nhiều mối
tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ
của ông , có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư
từ…
Năm 2004, hãng phim truyền hình TPHCM ( TFS )
đã thực hiện bộ phim Hàn Mạc Tử để kỷ niệm ông. Một số bài thơ nổi tiếng đã
được phổ nhạc vì tính lãng mạn của nó, một số bài được nhiều nhà phê bình đánh
giá là hay và đưa vào sách giáo khoa bậc trung học như bài : Đây thôn Vỹ Dạ hay
Mùa xuân chín.
MÙA XUÂN CHÍN
Trong làn nắng ửng : khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang
***
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
***
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
***
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Ao em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà.
Ngoài ra nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có phổ nhạc
bài Hàn Mặc Tử như sau :
HÀN MẠC TỬ
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò”
Đường lên dốc đá nữa đêm trăng tà nhớ câu
chuyện xưa. Lầu Ong Hoàng đó thửơ nào trăng Hàn Mạc Tử đã qua. Anh trăng treo
nghiêng nghiêng bờ cát dài thêm hoang vắng. Tiếng chim kêu đâu thương như nức
nở dưới trời sương. Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngở bước chân người, tìm về giữa
đêm buồn.
Đường lên dốc đá nhớ xưa hai người đã một lần
đến. Tình yêu vừa chớm xót thương cho chàng cuộc sống phê nhân. Tiếc thay cho
thân trai, một nửa đời chưa qua hết. Trách thay cho tơ duyên chưa thắm nồng đã
vội tan. Hồn ngất ngây điên cuồng cho trời đất cũng tan thương mà khổ đau
niềm riêng.
Hàn Mạc Tử xuôi về quê cũ dấu thân nơi nhà
hoang. Mộng Cầm hỡi thôi đừng thương tiếc tủi cho nhau mà thôi. Tình đã lỡ xin
một câu hứa kiếp sau ta trọn đôi. Còn gì nữa thân tàn xin để một mình mình đơn
côi.
Tìm vào cô đơn đất Quy Nhơn ghềnh đón chân
chàng đến. Người xưa nào biết chốn xưa ngập đường pháo cưới kết hoa. Chốn hoang
liêu tiêu sơ Hàn âm thầm ôm trăng vỡ. Khóc thương thân bơ vơ cho đến một buổi
chiều kia. Trời đất như quay cuồng khi hồn phách vút lên cao. Mạc Tử nay còn
đâu.
Hoàng Cúc :
Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá
Dám ôm hồn Cúc ở trong sương
Ngọc Sương :
“Ta đề chữ Ngọc trên tàu chuối
Sương ở bên thềm chảy mãi thôi”
Mộng Cầm :
Đi thăm Hàn Mạc Tử ở trại phong Quy Hoà, Hàn
Mạc Tử trốn không gặp, gửi tặng thơ cho Mộng Cầm.
“Chửa gặp nhau mà đã biệt ly
Hồn anh theo dõi bước em đi
Hồn anh sẽ quyện trong làn gió
Lưu luyến bên em chẳng nói gì”
Thương Thương :
Thương Thương là cháu của Trần Thanh Địch
(bạn thơ, rất thân với Hàn Mạc Tử). Trần Thanh Địch muốn an ủi bạn nên bày
chuyện gửi thư cho Hàn Mạc Tử :Viết rằng Thương Thương rất yêu Hàn Mạc Tử (thực
ra Thương Thương còn nhỏ : 12 tuổi)
Hàn Mạc Tử xúc động viết tặng thơ :
“Chiều nay tàn tạ hồn hoa
Nhớ
thương thương quá, xót xa tâm bào”
Hàn Mạc Tử sáng tác vở kịch “Quần Tiên Hội”
có nhân vật chính là Thương Thương trong tưởng tượng. Sau đó anh của Thương
Thương tức giận ngăn cấm, vở kịch bị bỏ dở nửa chừng. Sau khi Hàn Mạc Tử mất,
có một người cũng cùng cảnh ngộ như Hàn Mạc Tử đã viết tiếp vở kịch này và được
giới nghệ sĩ đồng tình.
Mai Đình :
Giáo viên nữ công một trường tư thục, có cuộc
sống sung túc, tinh thần thoải mái.
“Tối ăn chè bưởi, học đờn ca
Kẻ đến thưa cô, kẻ bẩm bà
Có bữa ngâm thơ quên cả ngủ
Quanh mình vây phủ đầy tiên nga”
Mai Đình yêu Hàn Mạc Tử, khi Hàn Mạc Tử gặp
đau thương, Mai Đình nhiều lần từ Sài Gòn ra Quy Nhơn thămvà an ủi Hàn Mạc Tử.
Ngày Hàn Mạc Tử chết, Mai Đình đau đớn ->
làm thơ , nội dung muốn chết theo Hàn Mạc Tử nhưng vì còn bận tham gia kháng
chiến trả nợ với nước non nên hẹn với chàng :
“Bao giờ tổ quốc ca toàn thắng
Là
lúc tìm anh dưới suối vàng.”
Sau này Mai Đình lập gia đình với một vị
tướng trong QĐNDVN. Người này rất hiểu và trân trọng tình yêu của Mai Đình với
Hàn Mạc Tử.
Mai đình lúc trên 70 tuổi vẫn làm thơ cho Hàn
Mạc Tử :
“Em biết yêu em đã muộn màng
Nỗi
niềm thương nhớ dễ gì an
Ghì
trăng ôm gió tìm hương cũ
Tóc
trắng, tình xanh, mộng chửa tàn”
Tham khảo thêm: Nhà thơHàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ
lạ
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có cuộc đời và số
phận hết sức lạ kỳ. Trong hơn nửa thế kỷ qua, rất nhiều cuốn sách, bài báo viết
về con người này nhưng dường như vẫn còn nhiều điều không thể nói hết. Nhân dịp
Đài Truyền hình TP.HCM chiếu bộ phim Hàn Mặc Tử, Thanh Niên xin giới thiệu loạt
bài tư liệu về nhà thơ này.
HÀN MẶC TỬ NĂM 12 TUỔI
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh
vào giờ thìn ngày 22/9/1912 tại làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Lúc còn nhỏ,
chàng đã được người anh đầu là một người rất giỏi thơ Đường luật động viên,
hướng dẫn làm thơ, nhờ thế chàng có thể sáng tác thành thạo thơ Đường từ rất
sớm. Chính những bài thơ này đã dẫn dắt chàng gặp gỡ nhà yêu nước vĩ đại Phan
Bội Châu. Và cuộc gặp gỡ định mệnh đó đã làm thay đổi cả cuộc đời chàng về sau.
Ấy là vào năm 1925, Phan Bội Châu bị thực dân
Pháp bắt ở Trung Quốc và đưa về Việt Nam xét xử. Nhưng dưới áp lực đấu tranh
đòi ân xá của các tầng lớp nhân dân trong nước cũng như dư luận quốc tế, chúng
phải đưa nhà yêu nước về giam lỏng ở Huế. Từ đó Phan Bội Châu trở thành Ông già
Bến Ngự, sớm tối lấy văn thơ làm vui. Để giao lưu tâm tình với bạn hữu và những
người đồng chí hướng, Phan Bội Châu mở ra Mộng Du thi xã, kêu gọi mọi người gửi
thơ văn đến xướng họa. Lời kêu gọi của nhà yêu nước được hưởng ứng sôi nổi. Thơ
từ các nơi gửi về cho Mộng Du thi xã rất nhiều. Và trong số các bài thơ gửi
đến, Phan Bội Châu đặc biệt tâm đắc với ba bài thơ của Hàn Mặc Tử. Chàng đã gửi
đến ba bài thơ Đường luật có tên là Thức khuya, Chùa hoang và Gái ở chùa. Đó là
vào khoảng năm 1931.
Những bài thơ của chàng đã xoáy đúng tâm
trạng nhà yêu nước. Phan Bội Châu đã họa lại ba bài thơ độc đáo này và cho đăng
tất cả trên Báo Tràng An, một tờ báo có nhiều bạn đọc xuất bản ở Huế với lời đề
dẫn: "Từ khi về nước đến nay, được nghe nhiều về văn thơ quốc âm, song
chưa gặp được bài nào hay đến thế. Hồng Nam nhạn Bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để
bắt tay nhau cười to một tiếng, ấy là thỏa hồn thơ".
Việc xướng họa thơ văn với nhà yêu nước Phan
Bội Châu đã làm cho Hàn Mặc Tử, khi đó lấy bút hiệu Phong Trần, nổi tiếng ngay
lập tức. Làng văn xôn xao trước sự xuất hiện đầy ấn tượng của một thi sĩ mới.
Đặc biệt hơn nữa, tác giả còn được Phan Bội Châu tôn xưng là tiên sinh. Tiếp
sau đó, Hàn Mặc Tử ra Huế để tìm thăm Phan Bội Châu. Đây là một việc làm hết
sức nguy hiểm, vì thực dân Pháp sẽ chú ý đến tất cả những ai có mối quan hệ mật
thiết với nhà yêu nước này. Sau cuộc gặp gỡ, Hàn Mặc Tử thường xuyên liên hệ
thư từ với Phan Bội Châu, chàng còn gửi thơ của những người bạn khác ra cho
ông. Mật thám Pháp sau một thời gian theo dõi, cuối cùng đã quyết định gạt tên
chàng ra khỏi danh sách những người được bảo trợ sang Pháp du học. Tiếp đó,
Sogny, Chánh sở mật thám Huế gửi công văn vào Quy Nhơn yêu cầu điều tra về
chàng. Chánh sở mật thám Quy Nhơn là Véran gọi chàng lên tra hỏi nhiều lần làm
cho gia đình hết sức lo lắng. Người anh đầu của chàng phải gửi thư ra Huế nhờ
Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, một người quen thân với gia đình chàng xưa nay, can
thiệp với chính quyền thì chuyện mới êm.
Không được đi du học, cuộc đời Hàn Mặc Tử rẽ
sang một ngả khác. Từ đây, chàng bắt đầu bước chân vào con đường viết báo. Thời
gian này, tình hình kinh tế nói chung rất khó khăn. Nạn thất nghiệp tràn lan.
Chàng làm thêm công việc biên chép các tờ trích lục cũ cho Sở Đạc điền Quy
Nhơn. Nhưng công việc này chỉ đem đến cho chàng một khoản tiền đủ để mua báo,
giấy viết và tem thư gửi bài. Rồi xảy ra cơn bão lớn năm 1934 làm sập căn nhà
của chàng đang ở. Nợ nần ập đến. Hàn Mặc Tử quyết định rời Quy Nhơn, vào Sài Gòn
lập nghiệp bằng con đường làm báo chuyên nghiệp.
Tháng 7 năm 1934, từ Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử
khăn gói lên đường vào Sài Gòn để làm báo theo lời thúc giục, rủ rê của mấy
người bạn thân. Sau một thời gian lang thang chờ việc ở Sài Gòn, chàng được mời
phụ trách trang văn chương cho tờ báo Trong khuê phòng...
Chàng vừa sáng tác, vừa biên tập bài vở, lại
kiêm luôn việc sửa bản in, vì thế thu nhập cũng khá. Nhưng chàng luôn cảm thấy
áy náy vì tờ báo mang tên Trong khuê phòng mà nói chuyện văn chương thì có vẻ
không ổn. Tuy thế, do chủ báo đối xử quá tử tế nên chàng cũng lấy làm vui.
Nhưng có một lần, những người bạn của chàng viết bài gây sự với ai đó, bị công
kích lại. Trên một tờ báo ở Sài Gòn, trong mục "Câu chuyện tầm phào"
có bài viết mỉa mai "những trang nam tử lập nghiệp trong phòng the",
ý nói nhóm làm báo Trong khuê phòng sống nhờ vào việc khai thác "thông tin
khuê phòng", với nhiều câu mỉa mai rất dung tục khiến chàng bị sốc, không
đến tòa soạn nữa. Chủ bút phải cử người tới nhà trọ của chàng lấy bài và an ủi
mãi chàng mới trở lại làm việc.
Ở Sài Gòn ít lâu chàng đã trở nên nổi tiếng.
Nhiều chính khách kính nể và đến làm quen khi biết chàng từng có mối liên hệ
với Phan Bội Châu và bị mật thám Pháp theo dõi. Từ đó chàng quan tâm hơn đến
những thông tin chính trị. Chàng định làm một nhà cách mạng chăng? Từ những
xướng họa với nhà yêu nước Phan Bội Châu, bỏ qua cả cơ hội quan trọng là sang
Pháp du học đến chỗ giao du với các nhân vật chính trị không đơn thuần là những
việc làm ngẫu hứng của một chàng thanh niên trẻ tuổi. Nhà báo De Lachevrotière,
một nghị viên Pháp lai da màu rất thích tìm chàng để nói chuyện. Qua De
Lachevrotière, chàng quen nhiều nhóm chính trị khác nhau. Một số nhóm còn bày
tỏ thái độ chống Pháp. Tuy nhiên, lâu dần chàng cảm thấy chán nản khi nhận ra
những nhóm chính trị này dù hô hào cách mạng nhưng họ chỉ là những con bài của
Pháp mà thôi.
Đầu năm 1935, chàng về Huế, trong một đêm
buồn lang thang trên bến sông Hương, chàng đã làm bài thơ Đêm khuya tự tình với
sông Hương để tặng Phan Bội Châu với nhiều tâm sự ray rứt: "Bây giờ
chỉ có đôi ta/Bao nhiêu tâm sự Hằng Nga biết rồi/Thuở nước non đến hồi non
nước/Sông Hương đành xuôi ngược đông tây/Soi lòng chỉ có đám mây/Đám mây phú
quý những ngày lao đao/Sao mặt sông xanh xao ra dáng/Sao tình sông lai láng
khôn ngăn". Bài thơ được đăng trên báo Công Luận số ra ngày 2/3/1935.
Nhiều câu chữ bộc lộ rất rõ ý hướng của chàng: "Mặc ai khanh tướng
công hầu/Không thèm chung đỉnh, lưng bầu gió trăng/Sao trời đất đãi đằng ra
thế/Sao mưa nguồn chớp bể luôn đêm", "Nhà ai khiêu vũ năm canh/Hơi
men sực nức dưới thành đô xưa/Sao tức tối trôi bừa đi mãi/Chẳng buồn nghe
cô lái thở than/Thuyền em đậu bến Hương giang/Chờ người quân tử lỡ làng tình
duyên". Đêm khuya tự tình với sông Hương mang hơi hướng Trên dòng
Hương giang của Tố Hữu. "Ô hay! Sóng chảy dạt dào/Chiếc thuyền vô
định lạc vào bến mê". Hơi thơ tuy ủy mị hơn nhưng tình thơ cũng là
thế. Hàn Mặc Tử nhìn thế sự bằng con mắt của một người muốn làm một cái gì để
vỡ tung sự đè nén.
Ngoài việc phụ trách trang văn chương cho tờ
Trong khuê phòng, Hàn Mặc Tử còn viết cho khá nhiều báo nên kiếm được nhiều
tiền nhuận bút. Ngoài báo tiếng Việt, chàng còn viết cho một số báo tiếng Pháp
như Impartial, Opinion, La Lutte... Tuy nhiên chàng vẫn luôn thiếu trước hụt
sau. Lãnh nhuận bút được bao nhiêu cũng bị bạn "mượn đỡ" mà không bao
giờ có chuyện trả lại. Thậm chí quần áo cũng để cho bạn bè dùng chung. Mỗi lần
từ Sài Gòn về đến Quy Nhơn chàng chỉ còn chiếc va-ly trống rỗng. Người em kế
của chàng tên Nguyễn Bá Tín kể, có lần vào Sài Gòn thăm anh, chẳng những anh ấy
không có tiền cho về xe mà còn xin tiền của em mình để tiêu nữa.
Hàn Mặc Tử là một người sống rất vì bạn. Thời
kỳ ở Quy Nhơn chưa vào Sài Gòn làm báo, ngôi nhà của chàng là nơi bạn bè tụ tập
đến để chơi đùa, nói chuyện văn chương, chuyện trên trời dưới đất. Nhiều người
ăn tại trong nhà chàng nhiều hơn ở nhà mình. Tuy nhiên có một điều đặc biệt,
chơi hết lòng với bạn nhưng không bao giờ theo bạn chơi bời buông thả. Chàng
nhất quyết không dính vào những thứ như gái, thuốc phiện. Hoàng Trọng Miên, một
người bạn làm báo thân thiết với chàng tiết lộ: "Có cám dỗ anh Trí vào nếp
sống buông thả nhưng tâm hồn anh trinh trắng quá, ngay cả đất Sài Gòn ăn chơi
tội lỗi này cũng không cám dỗ anh sa ngã được".
Mộng Cầm lúc quen Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử quen Mộng Cầm trong thời gian phụ
trách trang văn chương cho tờ Trong Khuê Phòng. Mộng Cầm là cháu gọi Bích Khê
bằng cậu, vì "lây nhiễm tinh thần thơ văn" của ông cậu trẻ tuổi nên
cũng tập tành làm thơ gửi đăng báo. Hàn Mặc Tử đã nhận được một số bài thơ như
thế của Mộng Cầm gửi đến và từ đó làm quen với Mộng Cầm.
Hai mươi năm sau ngày Hàn Mặc Tử mất, vào năm
1961, nhà thơ Nguyễn Vỹ, chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Phổ Thông có tòa soạn
tại Sài Gòn đã cử ông Châu Mộng Kỳ tìm gặp Mộng Cầm để thực hiện bài phỏng vấn
về mối tình Hàn Mặc Tử - Mộng Cầm. Nhờ mối quan hệ đặc biệt, ông Châu Mộng Kỳ
là thầy dạy con riêng của chồng Mộng Cầm, nên bài phỏng vấn mới thực hiện được.
Trước đó nhiều nhà báo đã bị từ chối. Trong bài trả lời phỏng vấn nói trên đăng
ở tạp chí Phổ Thông số 63, ra ngày 15 tháng 8 năm 1961, Mộng Cầm đã phủ nhận
hoàn toàn chuyện tình cảm giữa mình và Hàn Mặc Tử: "Một dịp thứ bảy đi
chơi lầu Ông Hoàng, anh thổ lộ mối tình với tôi. Tôi có trả lời anh: Chắc là
không thể đi đến chỗ trăm năm được, tôi nói trước để anh đừng hy vọng. Anh hỏi
lý do. Tôi viện lẽ tôn giáo khác nhau, nhưng thật ra vì biết Hàn Mặc Tử mang
chứng bệnh hiểm nghèo, không thể sống lâu được, ý tôi muốn một người chồng mạnh
khỏe, tráng kiện... Tuy vậy chúng tôi vẫn giao thiệp thân mật một hai năm như
thế. Trong thời gian này, có nhiều lần, Hàn Mặc Tử năn nỉ tôi dẫn về Quảng Ngãi
thăm nhà và trong nhiều bức thư anh đề cập đến vấn đề hôn nhân. Tôi vẫn trả
lời, nhưng luôn luôn ngụy biện để từ chối: Em thiết nghĩ chúng ta sống như thế
này thanh cao hơn, tôn giáo bất đồng, chữ hiếu bắt buộc em phải nghe lời thân
mẫu em".
Bài phỏng vấn này đăng lên, Nguyễn Vỹ cho
biết Mộng Cầm đã đọc và không có điều chi thắc mắc và ông kết luận "đã
giải đáp dứt khoát một nghi vấn thường bị nhiều người xuyên tạc". Tuy
nhiên với độc giả, bài trả lời phỏng vấn của Mộng Cầm đã gây sốc. Bởi mối tình
Mộng Cầm - Hàn Mặc Tử đã được người đời nâng lên thành huyền thoại. Ngay cả
Ngọc Sương, dì ruột của Mộng Cầm cũng phản đối. Rồi đến Quách Tấn, người đã ủng
hộ việc Mộng Cầm đi lấy chồng khi hay tin Hàn Mặc Tử bị bệnh nan y cũng giận dữ
trước lời phát biểu này. Quách Tấn viết: "Cuộc tình duyên giữa Hàn Mặc Tử
và Mộng Cầm, tôi biết rõ lắm. Nhưng tôi chỉ nói những gì có thể nói được, nói
những gì có thể giúp cho bạn đọc hiểu thêm tâm hồn Tử, văn chương Tử mà
thôi". Quách Tấn là người đã từng bênh vực việc Mộng Cầm đi lấy chồng làm
cho nhà thơ Bích Khê giận ông mấy ngày. Nhưng ông vô cùng tức giận khi Mộng Cầm
phủ nhận mối tình với Hàn Mặc Tử. Mộng Cầm đã nói thật hay nói dối ? Vì sao
nàng lại phủ nhận mối tình này ? Thật ra, trong thời gian quen biết với Mộng
Cầm, căn bệnh phong của chàng chưa bộc phát. Ngay cả chàng cũng không hề
"cảm thấy", làm sao Mộng Cầm có thể "nhận ra". Rất dễ thấy
rằng đó là những lời nói dối của một người con gái muốn quên quá khứ để bảo vệ
hạnh phúc hiện tại. Một lý do rất thường tình và đáng thông cảm. Mối tình Hàn
Mặc Tử - Mộng Cầm đã được rất nhiều người gần gũi xác nhận. Trần Thanh Mại, một
người bạn của chàng đã công bố những chi tiết của mối tình này trong cuốn sách
Hàn Mặc Tử xuất bản năm 1942. "Ấy là câu chuyện một đôi trai tài gái sắc
yêu nhau, câu chuyện muôn đời ấy mà! Người con trai là Hàn Mặc Tử, người con
gái, ta cứ theo nhà thi sĩ mà gọi là Mộng Cầm đi, mặc cái tên thực của họ. Hai
bên đã thề nguyền cùng nhau những lời mà ta hiểu là thiết tha đằm thắm lắm.
Thường thường thì họ hay gặp nhau ở hai tỉnh: Qui Nhơn và Phan Thiết. Họ đưa
nhau đi chơi bờ bể, họ đi viếng các danh lam thắng cảnh, nhất là lầu Ông Hoàng.
Rồi họ xa nhau. Họ nhớ nhau, và tặng ảnh cho nhau. Họ coi như một cặp vợ chồng
chưa cưới".
Hàn Mặc Tử đã sáng tác nhiều bài thơ đầy nước
mắt về mối tình này. Trong bài Muôn năm sầu thảm, chàng đã kêu tên nàng lên một
cách thảm thiết: "Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm / Nhớ thương còn một nắm
xương thôi". Bài Phan Thiết Phan Thiết, chàng nhắc tới những kỷ niệm xưa
về lầu Ông Hoàng, nơi chàng và Mộng Cầm từng dạo chơi thuở nào: "Ta lang
thang tìm tới chốn lầu Trăng/Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang/Nơi đã
khóc, đã yêu thương da diết/Ôi trời ôi! là Phan Thiết! Phan Thiết!/Mà tang
thương còn lại mảnh trăng rơi".
Hoàng Cúc là người liên quan đến bài thơ tình
đẹp nhất trong kho tàng thơ ca Việt Nam: Bài thơ thôn Vỹ. Nàng tên thật là
Hoàng Thị Kim Cúc, sinh ngày 5/12/1913, kém Hàn Mặc Tử 1 tuổi.
Cũng như Hàn Mặc Tử, nàng phải theo gia đình
vào Quy Nhơn sinh sống vì cha nàng là công chức, làm việc tại Quy Nhơn. Năm
1933, Tử vào làm cho Sở Đạc điền Quy Nhơn và quen Hoàng Tùng Ngâm - em thúc bá
của Hoàng Cúc. Hoàng Tùng Ngâm sống trong ngôi nhà nhỏ cạnh nhà Hoàng Cúc, anh
em bè bạn thường tụ tập để chơi đùa, bình phẩm văn thơ. Hoàng Cúc khi đó cũng
đang tập tành viết báo làm thơ với bút hiệu Hoàng Hoa nữ sĩ nên cũng quen biết
Hàn Mặc Tử.
Với bản tính đa tình, Hàn Mặc Tử đã đem lòng
si mê Hoàng Cúc. Chàng đã làm một số bài thơ tặng nàng như bài Vịnh hoa cúc,
Trồng hoa cúc... Một số bài đã đến tay Hoàng Cúc qua Hoàng Tùng Ngâm. Hoàng Cúc
biết rất rõ tình cảm của chàng.
Rồi Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo. Sau một
thời gian, chàng về lại Quy Nhơn. Lúc này gia đình chàng đã dời đến cách nhà
Hoàng Cúc chỉ vài căn. Tình xưa dậy sóng trở lại. Giờ đây, chàng đã ít nhiều
bạo dạn hơn trước. Hàn Mặc Tử sáng tác bài Hồn cúc: "Bấy lâu sát ngõ,
chẳng ngăn tường/Không dám sờ tay sợ lấm hương/Xiêm áo đêm nay tề chỉnh
quá/Muốn ôm hồn cúc ở trong sương".
Năm 1936, Hoàng Cúc theo gia đình về Huế sinh
sống. Sau đó, nàng bắt đầu ăn chay trường, trở thành cư sĩ, sống cuộc đời lặng
lẽ bí ẩn. Cũng trong năm đó, Hàn Mặc Tử in tập thơ Gái quê, là tập thơ mới đầu
tiên kể từ khi chàng bỏ làm thơ Đường luật. Chàng mang theo một số tập Gái quê
ra Huế. Và chàng đã gặp lại Hoàng Cúc trong một dịp hội chợ nhưng không dám
tặng thơ cho nàng. Chàng cũng tìm đến Vỹ Dạ - nơi ở của Hoàng Cúc - nhưng chỉ
đứng ngoài cổng một lúc rồi bỏ đi.
Nhiều năm sau đó, giữa hai người không có
liên lạc gì với nhau. Một hôm Hoàng Cúc nghe tin chàng bị bệnh phong, nàng liền
gửi thư cho chàng. Và chàng đã cảm động sáng tác bài Đây thôn Vỹ Dạ gửi tặng
nàng.
Chuyện tình Hoàng Cúc - Hàn Mặc Tử cũng có
những điều gây tranh cãi như trường hợp Mộng Cầm. Bởi Hoàng Cúc đã có lần công
khai phủ nhận chuyện nàng có tình cảm với Hàn Mặc Tử. Đó là vào năm 1969, nhà
thơ Quách Tấn, người bạn thân thiết của Hàn Mặc Tử đã viết một hồi ký lấy tên
là Đôi nét về Hàn Mặc Tử đăng trên tạp chí Văn, trong đó có phần nói đến mối
quan hệ giữa Hoàng Cúc và Hàn Mặc Tử. Quách Tấn cho rằng hai người không thành
duyên nợ là do thân sinh của Hoàng Cúc chê Hàn Mặc Tử không xứng. Hoàng Cúc đã
đọc được hồi ký này và ngày 15/3/1971, nàng gửi thư cho Quách Tấn để "nói
lại cho rõ". Hoàng Cúc đã phản bác một số chi tiết nhỏ mà Quách Tấn nêu ra
và cuối cùng nói về mối quan hệ của mình với Hàn Mặc Tử: "Hồi ấy tuy Tử ở
gần nhà tôi, song Tử và tôi cách xa nhau như hai ngọn núi. Tử thì kín đáo và
bẽn lẽn như con gái, còn tôi thì bí mật và xa lạ như cung trăng! Tuy thế Tử
cũng đã tìm cách để gặp, nhưng vẫn chưa toại nguyện..."
Thế nhưng Quách Tấn kiên quyết bảo vệ lập
trường của mình trong các chi tiết thể hiện việc Hàn Mặc Tử và Hoàng Cúc có yêu
nhau: "Còn về những chi tiết trong cuộc tình duyên của Tử - Cúc, thì nhất
định ký ức tôi không phản tôi, vì không có gì phức tạp khó nhớ. Việc Tử nhờ
người đến dạm là việc có thật. Người ấy là nhà thầu khoán Bùi Xuân Lang ở Quy
Nhơn, vừa thân với Tử, vừa quen với cụ Hoàng Phùng".
Hiểu như thế nào về chuyện này? Theo chúng
tôi, Hoàng Cúc ngày ấy là một thiếu nữ trẻ trung yêu đời, lại ít nhiều có tâm
hồn văn chương thì việc đáp lại những tình cảm của một người như Hàn Mặc Tử là
có thể xảy ra. Nhưng sau này cũng như Mộng Cầm, nàng đã cố gắng chôn chặt những
điều thầm kín riêng tư vào cõi lòng. Là một người xa lánh cuộc đời để tìm đến
cõi thiền, thì những chuyện tình cảm dù có cũng không thể phơi bày cho công
chúng biết. Cho nên việc Hoàng Cúc phủ nhận chuyện có đáp lại tình cảm với Hàn
Mặc Tử là điều dễ hiểu. Nguyễn Bá Tín cho biết tại nhà riêng của Hoàng Cúc, khi
đã quy y, nàng vẫn "dành riêng một căn phòng ngày đêm hương hoa tụng niệm,
tưởng nhớ mối tình bất diệt của anh mà cũng là tình đầu của chị".
Mối tình Hàn Mặc Tử - Hoàng Cúc như là khói
sương bảng lảng. Nàng thực sự là một nàng thơ hơn là một người tình để chàng có
thêm thi hứng mà thôi.
Năm 1936, Hàn Mặc Tử từ Sài Gòn trở lại Quy
Nhơn. Lúc này thân phụ Hoàng Cúc về hưu nên gia đình phải dọn về Huế. Cũng
trong năm đó, chàng bắt đầu phát hiện những dấu hiệu của căn bệnh phong, nhưng
chàng vẫn chưa quan tâm đến nó. Một thời gian rất lâu, căn bệnh mới phát mạnh.
Năm 1939, Hoàng Cúc nhận được hung tin nói
trên từ Hoàng Tùng Ngâm. Nàng chuẩn bị một số tiền định gửi cho Hàn Mặc Tử uống
thuốc nhưng không dám gửi. Nàng bèn gửi cho Hàn Mặc Tử một bức ảnh chụp cảnh
nàng mặc áo lụa dài trắng đứng dưới vòm cây xanh mát. Nhận được ảnh, Hàn Mặc Tử
rất vui. Chàng liền làm ngay bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ gửi ra Huế cho Hoàng Cúc.
Chi tiết trên là theo Nguyễn Bá Tín. Còn theo
nhiều tác giả khác thì Hoàng Cúc không gửi ảnh mình mà gửi một tấm bưu ảnh có
mây nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có khóm tre, có cả ánh trăng
hoặc là ánh nắng chiếu xuống. Một thời gian sau, nàng nhận được thư của Hàn Mặc
Tử. Kèm theo bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ gửi tặng, Hàn Mặc Tử viết: "Túc hạ! Có
nhận được bức ảnh bến Vỹ Dạ lúc hừng đông hay là một đêm trăng? Và mấy hàng chữ
của túc hạ gửi thăm, muôn vàn cảm tạ. Túc hạ còn nhớ đến người năm xưa, thế là
phúc phận lắm rồi. Mong ơn trên xuống độ cho túc hạ thật đầy và mong rằng một
mùa xuân nào đấy sẽ gặp lại được túc hạ cho phỉ dạ. Thăm túc hạ bình an vui
vẻ".
Đây thôn Vỹ Dạ là bài thơ nhẹ nhàng nhất của
Hàn Mặc Tử trong tập thơ Điên. Bởi lúc này chàng đang trong thời kỳ bệnh tật,
đau đớn điên cuồng cả thể xác lẫn tâm hồn. Thơ của chàng luôn luôn là những gào
thét uất hận, nghẹn ngào. Bài thơ này, Nguyễn Bá Tín cho biết nguyên cái tựa
ban đầu của nó là Ở đây thôn Vỹ Dạ. Nhưng về sau đã được biên tập lại, bỏ đi
chữ Ở. Trong bài thơ, hình ảnh hàng cau được nhiều người khen ngợi, nhưng lại
đem đến thắc mắc cho chính người được tặng thơ là Hoàng Cúc. Nàng đã không hiểu
vì sao Hàn Mặc Tử lại viết câu thơ "Sao anh không về chơi thôn Vỹ/Nhìn
nắng hàng cau nắng mới lên". Thôn Vỹ Dạ, nằm bên kia Đập Đá, cư dân ở đây
phần lớn thuộc tầng lớp thượng lưu. Kế thôn Vỹ Dạ là thôn Nam Phổ, một thôn
bình dân, sống bằng nghề trồng cau. "Mua vôi chợ Quán chợ Cầu. Mua cau Nam
Phổ mua trầu chợ Dinh". Cau Nam Phổ nổi tiếng khắp cả nước. Hằng năm đến
mùa cau, già trẻ gái trai trong làng đều có thể trèo cau, hái cau để bán. Các
cô gái Nam Phổ nổi tiếng trèo cau giỏi. Vì thế có câu "Con gái Nam Phổ ở
lổ trèo cau". Những cô gái khuê các vùng Vỹ Dạ rất sợ bị xếp vào diện câu
ví đó. Và vì thế ít ai chịu trồng cau ở Vỹ Dạ. Như vậy, thì vì sao Hàn Mặc Tử
lại lấy hình ảnh cây cau như là một biểu tượng cho thôn Vỹ Dạ?
Bài thơ cũng tạo ra rất nhiều sự khó hiểu đối
với độc giả trong các chi tiết khác. Chẳng hạn mấy câu thơ "Mơ khách đường
xa, khách đường xa. Áo em trắng quá nhìn không ra" và "Ở đây sương
khói mờ nhân ảnh. Ai biết tình ai có đậm đà?". Có nhiều ý kiến lý giải
khác nhau, trong đó thậm chí có người cho rằng khổ thơ này chỉ những nàng kỹ nữ
sông Hương như trên báo Giáo Viên Nhân Dân số tháng 1/1990. Theo ý kiến một số
người, hình ảnh "áo trắng nhìn không ra" là do Hoàng Cúc mặc chiếc áo
dài màu trắng mà tấm hình cũ quá nên Hàn Mặc Tử không thấy rõ. Còn "sương
khói mờ nhân ảnh" thì Nguyễn Bá Tín cho rằng có thể là Hàn Mặc Tử muốn nói
đến đời sống khói nhang cõi thiền của Hoàng Cúc.
Ngày tháng ra đời của bài thơ cũng gây bàn
cãi. Trên Tuổi Trẻ Chủ Nhật số ra ngày 7/1/1990, tác giả Đào Quốc Toàn viết:
"Bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ chỉ có thể được viết trong khoảng 1936-1937 chứ
không thể viết vào năm 1939 được, bởi vì bài thơ này được Hàn Mặc Tử tập hợp
lại ở tập Đau thương trong thời gian cuối 1937 đầu 1938. Tập thơ này gồm khoảng
50 bài thơ, lúc đầu lấy tên là Thơ điên".
Đây cũng là vấn đề khó làm sáng tỏ. Hàn Mặc
Tử sáng tác bài thơ này trong thời điểm nào? Nếu căn cứ vào trí nhớ của Hoàng
Cúc thì bài thơ ra đời vào năm 1939. Trong thư gửi cho Quách Tấn vào ngày
15/10/1971, Hoàng Cúc viết: "Vào khoảng hè 1939, Ngâm viết thư về Huế cho
biết Tử mắc bệnh nan y, và khuyên tôi nên viết thư thăm Tử, để an ủi một tâm
hồn đã vô cùng đau khổ. Thay vì viết thư thăm, tôi gửi bức ảnh phong cảnh vừa
bằng cái carte-visite. Trong ảnh có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái
chèo đò, có mấy khóm tre, có cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước.
Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời hỏi thăm sức khỏe Tử mà không ký tên, rồi nhờ Ngâm
trao lại. Sau đó một thời gian, tôi nhận được bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ...".
Mai Đình thực ra không phải là một nàng thơ,
cũng không phải là một người tình của Hàn Mặc Tử...Đúng nghĩa, nàng là một
người bạn văn chương của chàng. Nàng gặp Hàn Mặc Tử khi chàng đã lâm trọng
bệnh, xa lánh tất cả mọi người để về ẩn mình trong một cái chòi tranh ở Gò Bồi,
cách thành Quy Nhơn khoảng 15 cây số.
Mai Đình xuất thân trong một gia đình khá
giả, nhưng mang trong mình dòng máu lãng mạn, nàng theo tiếng gọi bốn phương
cất bước ra đi. Nhờ có nghề dạy nữ công gia chánh cho những gia đình giàu có
nên Mai Đình kiếm kế sinh nhai khá dễ dàng. Nàng đã đặt chân đến nhiều vùng đất
xa xôi, có khi qua tận Nam Vang. Năm 1937, Mai Đình đến Quy Nhơn. Trước đó nàng
đã nghe danh Hàn Mặc Tử từ lâu. Là một người có cá tính mạnh mẽ, nàng không câu
nệ, tìm cách giáp mặt chàng. Lần đầu tiên, Hàn Mặc Tử vì tự ti bệnh tật nên không
chịu tiếp. Nàng bèn vào Nha Trang, thông qua Quách Tấn để "tiếp cận"
chàng. Trong hồi ký của mình, Quách Tấn nhớ lại: "Gặp tôi, nàng không chút
e lệ, ngồi nói chuyện như người quen biết đã lâu. Phê bình bài thơ Gái quê
xong, nàng tỏ thật nỗi lòng đối với Tử: "Biết Tử mang bệnh ngặt nghèo,
lòng tôi hết sức thương cảm. Tôi mong sao chia sớt được nỗi đau khổ của Tử một
đôi phần". Rồi nàng trách Mộng Cầm sao đành lòng bỏ Tử".
Nàng gửi cho Quách Tấn bài thơ Biết
anh để tặng Hàn Mặc Tử với những câu thơ thật mạnh dạn: "Còn anh em
đã gặp anh đâu!/Chỉ cảm vần thơ có những câu/Âu yếm say sưa đầy cả mộng/Xui
lòng tư tưởng lúc đêm thâu". Đây là bài thơ đầu tiên mở ra một tình bạn
văn chương thú vị giữa hai người. Hàn Mặc Tử nhận được thơ, liền hồi âm nhưng
Mai Đình đã đi khỏi Nha Trang. Chàng buồn rầu sáng tác bài Lưu luyến:
"Chửa gặp nhau mà đã biệt ly/Hồn anh theo dõi bóng em đi/Hồn anh sẽ nhập
trong luồng gió/Lưu luyến bên em chẳng nói gì".
Điều đặc biệt nhất trong mối quan hệ Mai Đình
- Hàn Mặc Tử là nàng đã hành xử rất đúng với tinh thần văn chương: Tứ hải giai
huynh đệ. Theo tài liệu của Trần Thanh Mại thì mùa hè năm 1938, Mai Đình từ
biệt Quy Nhơn để vào Sài Gòn thu xếp công việc. Khi trở ra, Mai Đình đưa Hàn
Mặc Tử một món tiền để lo thuốc thang và nói ý định của mình: sẽ ở lại trong
cái chòi tranh cùng với chàng. Hàn Mặc Tử từ chối nhưng nàng mặc kệ, cứ ở đấy
đi chợ nấu ăn, sắc thuốc cho chàng. Mai Đình không hề ngần ngại bệnh tật cũng như
dư luận người đời.
Hàn Mặc Tử từ chỗ không muốn gặp mặt đến xúc
động trước việc làm của Mai Đình nên đã có nhiều câu thơ tặng
nàng: "Đây Mai Đình tiên nữ ở Vu Sơn/Đêm muộn xuống gieo vào muôn
sóng mắt/Nàng, ôm nàng hai tay ta ghì chặt/Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay!". Ngoài
lo việc cơm nước thuốc thang cho chàng, thời gian còn lại nàng cùng chàng ngâm
thơ vịnh cảnh. Hai tâm hồn thi sĩ sống bềnh bồng với những vần thơ như thế suốt
một thời gian dài. Nhưng số tiền Mai Đình mang theo cũng đã hết. Nàng khuyên
chàng vào Bệnh viện phong Quy Hòa để điều trị, nàng sẽ đi theo và ở luôn trong
ấy để chăm sóc cho chàng. Nhưng Hàn Mặc Tử từ chối. Cuối cùng hai người phải từ
giã nhau. Nàng lại cất bước giang hồ bốn phương. Lâu lâu, chàng lại nhận được
cánh thư của nàng từ phương trời xa nào đó. Trong một lần ngồi buồn, chàng đem
những từ ngữ trong bức thư nàng gửi xếp lại thành bài thơ. Đó là bài Thao thức
với những câu thơ da diết: "Lạnh quá ánh trăng không sáng mấy/Cho nên
muôn dặm ở ngoài kia/Em đang mong mỏi, em đang nhớ/Bứt rứt lòng em muốn trở
về".
Mối tình thơ kỳ lạ giữa Mai Đình và Hàn Mặc
Tử cùng với việc Mai Đình chăm sóc cho Hàn Mặc Tử được Trần Thanh Mại công bố
vào năm 1942, một năm sau ngày Hàn Mặc Tử mãi mãi ra đi. Nhưng câu chuyện trên
đây không được gia đình Hàn Mặc Tử thừa nhận và Quách Tấn thì cho rằng Trần
Thanh Mại đã hoàn toàn bịa đặt. Tuy nhiên, những tài liệu của Trần Thanh Mại
công bố đã thuyết phục được không ít người. Có người cho rằng, trước đây giữa
nhà thơ Quách Tấn và nhà phê bình Trần Thanh Mại xảy ra vụ kiện bản quyền thơ
Hàn Mặc Tử, liên quan trực tiếp đến cuốn sách Hàn Mặc Tử mà Trần Thanh Mại xuất
bản năm 1942, xuất phát từ mâu thuẫn này mà nhà thơ Quách Tấn đã nói như vậy
chăng?
Thương Thương là một nàng thơ huyền diệu nhất
của Hàn Mặc Tử. Bởi chàng không chỉ đơn thuần làm thơ về nàng như những hình
bóng giai nhân khác. Trong tâm tưởng chàng, Thương Thương không phải là người
của cõi trần.
Trong bài thơ Tiêu sầu, chàng đưa mình bay
lên tận cung trăng để gặp "Hằng Nga Thương Thương", trong vở kịch thơ
Duyên kỳ ngộ và Cẩm châu duyên, Thương Thương là tiên nữ. Chính vì vậy, có một
số tài liệu cho rằng Thương Thương không phải là người có thật mà chỉ là cái
tên mượn. Trần Thị Huyền Trang, cháu nhà thơ Quách Tấn viết trong Hàn Mặc Tử -
hương thơm và mật đắng: "Thương Thương không phải là một nhân vật có thật.
Tất cả mọi chuyện đều do Trần Thanh Địch sắp đặt ra".
Chúng tôi đã trực tiếp gặp nhà văn Trần Thanh
Địch tại tư gia ở đường Nguyễn Đình Chính, quận Phú Nhuận, TP.HCM để tìm hiểu
về nàng thơ này. Trần Thanh Địch là một trong hai người bạn thân nhất của Hàn
Mặc Tử (người kia là nhà thơ Quách Tấn). Thương Thương chính là Trần Thị Thương
Thương, là con của ông Trần Thanh Đạt, anh trai hai nhà văn Trần Thanh Mại và
Trần Thanh Địch. Hàn Mặc Tử cũng là bạn của Trần Tái Phùng, anh ruột Thương
Thương.
Ông Địch cho biết, vào năm 1936, khi Hàn Mặc
Tử ra Huế lần cuối cùng để tặng tập Gái quê cho bạn bè, thì Thương Thương chỉ
mới 12 tuổi, nên Hàn Mặc Tử chẳng hề chú ý đến làm gì. Đến năm 1939, Hàn Mặc Tử
đã trải qua nhiều biến cố đau buồn trong cuộc đời như người anh cả dạy chàng
làm thơ năm nào qua đời, Hoàng Cúc theo gia đình về quê, Mộng Cầm bỏ đi lấy
chồng, bệnh tình chàng ngày một nặng hơn. Lúc này, chàng đã sống ẩn mình, chỉ
biết làm thơ. Làm được bài nào, chàng chép lại để gửi ra Huế cho Trần Thanh Địch
và Trần Tái Phùng đọc.
Lúc này, tiếng tăm của chàng đã nổi như cồn.
Thơ chàng làm ra được học sinh trung học chép tay chuyền nhau đọc thuộc lòng.
Đặc biệt là những nữ sinh, rất thích chép và đọc thơ Hàn Mặc Tử. Trần Thị
Thương Thương bấy giờ đang học Trường Trung học Đồng Khánh, cũng bắt đầu say mê
thơ Hàn Mặc Tử.
Trần Thanh Địch kể, một hôm ông đang ngồi
viết thư cho Hàn Mặc Tử thì Thương Thương đến gần, nói đại ý nếu có gửi thư cho
Hàn Mặc Tử thì xin cho Thương Thương gửi lời thăm. Trần Thanh Địch khuyên
Thương Thương viết một bức thư ngắn gửi kèm cho lịch sự. Thương Thương nghe lời
chú, viết bức thư xã giao, nói đại ý đã đọc thơ của chàng nhiều và rất thích,
nay gửi lời chúc chàng mau bình phục để sáng tác.
Nhận được thư Thương Thương, chàng hồi âm
ngay. Chàng nói rất vui và sẽ có thơ gửi tặng Thương Thương. Quả nhiên chỉ vài
hôm Thương Thương bắt đầu nhận được thơ chàng gửi tặng. Đó là các đoạn trích
hai vở kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội. Chàng cũng đặt cho Thương Thương
biệt danh Người lụa bến sông Hương.
Hai vở kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội
là những sáng tác độc đáo của Hàn Mặc Tử. Trần Thanh Địch cho biết cứ vài ngày
ông và Trần Tái Phùng lại nhận được một đoạn thơ từ Quy Nhơn gửi ra. Phùng đọc
xong chuyển cho người anh rể vốn là giáo viên Trường Trung học Khải Định. Người
này đem lan truyền trong các học trò của mình. Điều đặc biệt trong Duyên kỳ ngộ
lẫn Quần tiên hội, tên tuổi của Thương Thương và Hàn Mặc Tử được nêu đích danh.
Chẳng hạn trong Duyên kỳ ngộ, chàng viết: "Em là Trần Thương Thương/Anh là
Hàn Mặc Tử/Không phải cách âm dương/Còn có khi hội ngộ".
Thương Thương lập tức nổi tiếng theo. Giới
học sinh ở Huế xôn xao. Trong một thời gian ngắn, chuyện đến tai ông Trần Thanh
Đạt, thân sinh của Thương Thương. Gia đình Thương Thương là gia đình quan lại,
ông nội Thương Thương làm Thừa biện Bộ Binh, ông ngoại làm Thượng thư Bộ Lễ.
Ông Trần Thanh Đạt khi đó cũng đang làm Tham tri Bộ Quốc gia giáo dục, ba năm
sau được thăng Thượng thư Bộ Quốc gia giáo dục. Trong một gia đình như vậy,
việc Thương Thương trở thành một người nổi tiếng kiểu đó khó mà được chấp nhận.
Ông Trần Thanh Đạt đã gọi anh Thương Thương là Trần Tái Phùng đến, yêu cầu tìm
cách làm nguội dư luận. Trần Tái Phùng bèn viết thư gửi Hàn Mặc Tử, đề nghị
chàng thôi sử dụng hình ảnh của Thương Thương trong sáng tác. Tử nhận được thư
và lập tức làm theo đề nghị của bạn. Từ đó, Quần tiên hội mãi mãi bị bỏ dở
dang.
Thương Thương là một nàng thơ đúng nghĩa của
Hàn Mặc Tử. Không gặp mặt, không nghe tiếng. Chỉ là những tưởng tượng. Thế
nhưng những sáng tác của chàng về nàng thật diệu kỳ. Về tuổi tác Thương Thương,
nhiều tài liệu nói rất khác nhau. Nhưng theo nhà văn Trần Thanh Địch, khi Hàn
Mặc Tử viết Quần tiên hội thì Thương Thương khoảng 15 tuổi. Nhà nghiên cứu Phạm
Xuân Tuyển, người đã bỏ công tìm hiểu rất kỹ về cuộc đời Hàn Mặc Tử cho biết,
Thương Thương sinh ngày 8/10/1924. Như vậy là vào năm 1939, Thương Thương đã 15
tuổi chứ không phải mới 12 tuổi như một số tác giả khác.
Hàn Mặc Tử là một người đa sầu đa cảm. Gặp ai
cũng đem lòng thương nhớ. Vì thế có rất nhiều hình bóng giai nhân đã đi vào thơ
chàng. Ngoài Mộng Cầm, Hoàng Cúc, Mai Đình, Thương Thương là bốn người phụ nữ
ảnh hưởng sâu sắc tới thơ Hàn Mặc Tử, trong từng giai đoạn còn có những người
phụ nữ khác để lại dấu ấn trong thơ chàng. Đầu tiên là Ngọc Sương. Nàng là chị
ruột của Bích Khê, bạn Hàn Mặc Tử, đồng thời là dì ruột của Mộng Cầm. Nguyên
khi Mộng Cầm đi lấy chồng, Bích Khê thấy bạn buồn quá bèn tặng tấm hình của hai
chị em cho Hàn Mặc Tử và giới thiệu đôi chút về Ngọc Sương. Do đó mà Ngọc Sương
cũng đã đi vào thơ Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên Ngọc Sương không hề có mối giao lưu
nào với Hàn Mặc Tử dù qua thư từ. Mãi đến khi Bích Khê mất vào năm 1946, Ngọc
Sương soạn lại di cảo của em mới biết rõ một số bài thơ Hàn Mặc Tử viết về
mình.
Một người nữa là Thanh Huy. Nàng tên thật là
Võ Thị Thu Huy, là chị vợ nhà văn Trần Thanh Địch, khi đó đang sinh sống ở Phan
Thiết. Cũng như Ngọc Sương, Thanh Huy chỉ làm quen qua thư chứ chưa gặp mặt Hàn
Mặc Tử. Đó là lúc chàng đã phát bệnh nặng. Thanh Huy cũng đang tập tành làm
thơ, được Bích Khê khuyên nên viết thư động viên Hàn Mặc Tử. Vì thế một hôm Tử
đang chán nản buồn phiền thì có bức thư bỏ trong phong bì màu xanh của Thanh
Huy gửi đến. Lập tức chàng sáng tác bài Bức thư xanh: "Thanh Huy hỡi nàng
chưa là châu báu/Cớ làm sao phước lộc chảy ra thơ/Duyên làm sao cho Trí đến dại
khờ/Mắt mờ lệ ở sau hàng chữ gấm/Ta đã nuốt và hình như đã cắn/Cả lời thơ cho
vãi máu nàng ra". Bài thơ viết một cách dữ dội, Thanh Huy đọc và thôi
không liên lạc với Tử nữa vì khiếp đảm.
Mỹ Thiện cũng là một nàng thơ để lại dấu ấn
mạnh trong thơ Hàn Mặc Tử. Nàng người gốc Huế, ở cạnh nhà Hàn Mặc Tử tại thành
phố Quy Nhơn. Nàng sống với cha và bà mẹ kế xấp xỉ tuổi nàng. Mỹ Thiện rất giỏi
âm nhạc dân tộc, nổi tiếng là một cây đàn tỳ bà tài hoa, đặc biệt có thể chơi
đủ năm cây đàn tranh, nhị, nguyệt, bầu, tỳ bà. Những đêm khuya, nàng thường dạo
đàn tranh réo rắt. Hàn Mặc Tử chưa một lần gặp mặt Mỹ Thiện nhưng chàng bị ám
ảnh bởi tiếng đàn. Ở thành phố Quy Nhơn dạo ấy, không chỉ riêng Hàn Mặc Tử mà
nhiều chàng trai khác cũng mơ tưởng đến người ngọc. Khi bệnh tình càng nặng,
tiếng đàn Mỹ Thiện càng làm cho chàng khó ngủ.
Mỹ Thiện không thoát khỏi hồng nhan bạc phận.
Sống với người mẹ kế, nàng thường xuyên chịu đựng những ganh ghét. Một ngày kia
nàng đã kết liễu đời mình bằng mười viên thuốc ngủ Véronal. Cái chết của Mỹ
Thiện đánh tan mọi ngờ vực của những người ác ý và bà mẹ kế, là nàng đã hoang
thai. Các bác sĩ đã công bố nàng vẫn còn là cô gái trinh tiết. Ngay lập tức Hàn
Mặc Tử vào buồng đóng cửa lại và bài Cô gái đồng trinh ra đời tức khắc:
"Đêm qua trăng vướng trên cành trúc/Cô láng giềng bên chết thiệt rồi/Trinh
tiết vẫn còn nguyên vẹn mới/Chưa hề âu yếm ở đầu môi/Xác cô thơm quá thơm hơn
ngọc/Cả một mùa xuân đã hiện hình". Hình bóng Mỹ Thiện từ đó còn trở lại
nhiều lần trong thơ chàng. Nguyễn Bá Tín em chàng kể lại: "Cô gái đồng
trinh từ đó trở thành một hiện tượng kỳ lạ, một nàng thơ dẫn dắt anh vào những
nhớ thương bàng bạc bâng quơ, hoặc hòa nhập vào những lời thơ quằn quại xót xa
mà cuộc đời nàng đã đi qua ngắn ngủi"...
Hàn Mặc Tử đã sáng tác được 5 tập thơ, trong
đó Lệ Thanh Thi Tập là tập thơ đầu tiên. Trong tập này bài Buồn thu có những
câu khá hay: "Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt/Cảnh sắp về đông mắt sẽ
vơi". Đây là bài thơ liên quan đến một người phụ nữ: đó là cô Trà. Nàng là
người về bên ngoại của Hàn Mặc Tử nhưng không bà con. Chàng đã gặp nàng vào cái
thời còn rất trẻ, tính tình khi ấy hết sức nhút nhát. Nàng chờ chàng ngỏ lời
nhưng mãi không thấy chàng lên tiếng. Mà con gái Huế thời ấy luôn lấy chồng
sớm. Chàng chưa nói được gì thì nàng đã sang sông. Sực tỉnh, chàng làm bài Buồn
thu với nhiều tiếc nuối. Đây có thể coi là hình bóng người phụ nữ đầu tiên đi
vào thơ chàng...
Ai cũng biết Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong. Nhưng
ngoài căn bệnh mà người ta cho rằng đã ảnh hưởng đến thơ của Tử, bật ra thành
những lời gào thét uất hận, thì trong thơ Tử còn có những hình ảnh thật kỳ dị
khó hiểu có thể liên quan đến một nguyên nhân khác. Chính người em ruột của Tử
đã đặt vấn đề về một căn bệnh tâm thần mà Tử mắc phải. Có thể như thế được
chăng?
Trong thơ Tử có những hình ảnh thật kỳ dị,
đôi lúc ma quái rùng rợn. Đến nỗi Hoài Thanh đã phải công nhận là: "Chính
như lời Hàn Mặc Tử nói trong bài Thơ điên, vườn thơ của người rộng thinh không
bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh".
Quả đúng như thế. Đọc thơ của chàng đôi lúc
thấy sởn da gà: "Tôi ngồi dưới bến đợi nường Mơ/Tiếng rú ban đêm rạng bóng
mờ!/Tiếng rú lòng tôi xô vỡ sóng/Rung tầng không khí, bạt vi lô/Ai đi lẳng lặng
trên làn nước/Với lại ai ngồi khít cạnh tôi?/Mà sao ngậm cứng Thơ đầy
miệng/Không nói không rằng nín cả hơi", "Lụa trời ai dệt với ai
căng?/Ai thả chim bay đến Quảng Hằng?/Và ai gánh máu đi trên tuyết/Mảnh áo da
cừu ngắm nở nang", "Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm/Cho trăng
ngập, trăng dồn lên tới ngực/Cho hai chúng tôi lặng yên trong thổn thức/Rồi bay
lên cho tới một hành tinh/Cùng ngả nghiêng lăn lộn với muôn hình/Để gào thét
một hơi cho rởn ốc".
Quách Tấn đã nghe Hàn Mặc Tử kể lại những câu
chuyện liên quan đến các hình ảnh người gánh máu đi trên tuyết và người ngồi
khít cạnh tôi như sau: "Đêm ấy - theo lời Tử kể - vì tiết sắp sang đông
nên bãi biển không một bóng người qua lại, mặc dù trời không lạnh và trăng sáng
như ban ngày. Đêm tạnh hết sức, tạnh đến nỗi nghe cả tiếng chiêm bao! Cảnh trời
thật mênh mông bát ngát. Lòng tôi lại mênh mông bát ngát bằng hai... Thân tôi
chìm trong không gian vô tận và hồn tôi chìm trong cõi lòng rộng vô biên. Tôi có
một cảm giác ngờm ngợp... Chợt nhìn lên trời thấy bóng trăng đã đứng đầu, và
nhìn bên cạnh thấy một bóng người ngồi sát. Liền đó từ trong bóng người ngồi
cạnh tôi, bước ra một bóng người thứ hai, đi từ từ ra biển và bước lững thững
trên mặt nước... Rồi hai bóng đều biến mất và mặt biển đông lại thành tuyết
sáng ngời dưới bóng trăng khuya. Thoạt hiện ra một người, thân vóc nở nang,
mình khoác chiếc áo lông, vai khoác hai thùng thiếc đựng đầy nước óng ánh.
Người ấy bước đi thì nước trong thùng tung ra và hóa thành huyết đổ lã chã trên
tuyết. Người gánh máu đi lần vào bờ... Tôi khiếp quá hét lên thành tiếng, vụt
đứng dậy, chạy một mạch về nhà. Vừa đến nhà, mệt quá, té nằm trước thềm, ngút
hơi... Từ ấy cảnh tượng kia ám ảnh tôi mãi...". Quách Tấn viết tiếp:
"Tử lại nói: Cảnh tượng người gánh máu đi trên tuyết khi trông thấy thì
rùng rợn hơn cảnh tượng người ngồi bên cạnh tôi. Song về sau mỗi lần nghĩ lại,
cảnh tượng người ngồi bên cạnh lại gây một cảm giác rùng rợn hơn".
Đó là những trạng thái "xuất thần"
mà hàng mấy chục năm, tất cả những người nghiên cứu về thơ Hàn Mặc Tử không ai
lý giải được nguyên nhân, kể cả Quách Tấn. Người ta chỉ cho rằng nó bật ra từ
sự đau khổ nung nấu mà Tử phải gánh chịu mà thôi.
Người em kế của Tử, sau nhiều năm lặng lẽ
chiêm nghiệm, đã công bố một kết luận vào năm 1991: "Trong quá trình chung
sống bên anh, tôi ghi nhận anh có hiện tượng suy nhược tâm thần, bệnh đó đã
được nhiều người bạn tôi, chuyên khoa tâm lý sau này xác nhận là hiện tượng
"névrose", một chứng rối loạn thần kinh nào đó, mà con người vẫn còn
sáng suốt và rung cảm bén nhạy, vẫn làm chủ được trí óc mình".
Nguyễn Bá Tín cho biết, có một tai nạn đã xảy
ra đối với Tử vào lúc nhỏ, có thể ảnh hưởng đến tâm thần chàng về sau. Đó là
lúc chàng khoảng 17-18 tuổi, suýt bị chết đuối ở biển Quy Nhơn. Sau khi thoát
chết, Tử trở nên hoảng loạn khác thường. Từ đó chàng bỏ luôn thói quen tắm
biển, sợ nước, ít hoạt động, hình thể gầy nhỏ đi. Nhiều biểu hiện làm cho gia
đình sợ rằng Tử bị tâm thần, nhưng sau đó thấy chàng bình thường, thậm chí còn
tập làm thơ nên cũng quên đi nỗi lo lắng.
Tuy nhiên với Tử thì khác. Chàng quả quyết
rằng trong cơn nguy biến đó, chàng đã được tận mắt thấy Đức Mẹ hiện ra. Đó là
giây phút mà chàng run sợ đến ớn lạnh toàn thân. Sau này Tử đã sáng tác bài Ave
Maria: "Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy/Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới
thế/Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ/Giòng thao thao bất tuyệt của nguồn
thơ". Chi tiết này càng củng cố cho nhận định của Nguyễn Bá Tín là đúng.
Những vần thơ Chế làm ra đã khiến Tử kinh
ngạc. Đọc thơ của Chế, Hàn Mặc Tử đã tìm ra được một hướng sáng tác: những bài
thơ điên loạn.
Quy Nhơn - Bình Định là vùng đất thiêng. Năm
trăm năm trước, vùng đất này là chiến trường đẫm máu. Một vương triều sụp đổ,
bao nhiêu chiến binh tử trận. Thành Đồ Bàn ngày nào còn lại một dãy gò sỏi mênh
mông với những tháp Chàm đổ nát. Từ xưa, nhiều thi sĩ khi qua đây đã cảm xúc
bật ra những vần thơ thống thiết.
Vào những năm 1930 - 1945, Quy Nhơn - Bình
Định bỗng trở thành vùng đất cực thịnh của văn chương nghệ thuật. Thật kỳ lạ,
nơi đây tập trung toàn những thi sĩ tầm cỡ. Thuở ấy, có cậu học trò nhút nhát
thích làm thơ tên là Phan Ngọc Hoan. Đắm mình trong không gian huyền hoặc của
cõi Đồ Bàn, Hoan đã đặt cho mình cái tên Chế Lan Viên rồi khóc than người đã
khuất bằng tập thơ Điêu tàn với những câu thơ thật lạ lùng: "Đây, chiến
địa nơi đôi bên giao trận/Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang/Máu Chàm cuộn tháng ngày
niềm oán hận/Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn".
Năm 1936, từ Sài Gòn trở lại Quy Nhơn, Hàn
Mặc Tử đã gặp Chế Lan Viên. Chế tìm đến Tử như tìm đến một ông thầy dạy làm
thơ. Thế nhưng những vần thơ của Chế đã khiến Tử kinh ngạc: "Chiều
hôm nay bỗng nhiên ta lạc bước/Vào nơi đây thế giới vạn cô hồn/Hơi người chết
tỏa đầy trong gió lướt/Tiếng máu kêu rung chuyển cỏ xanh non/Trên một nấm mồ
tàn ta nhặt được/Khớp xương ma trắng tựa não cân người/Tủy đã cạn nhưng vẫn đầm
hơi ướt/Máu tuy khô còn đượm khí tanh hôi". Trước đó, Hàn Mặc Tử đã nghiên
cứu rất kỹ về trường phái thơ tượng trưng của Pháp. Chàng mong muốn tạo ra một
trường phái thơ cho riêng mình. Giờ đây Chế đã làm lóe lên trong đầu Tử cái mà
lâu nay chàng đi tìm nhưng chưa thấy. Trước đó, khi Yến Lan hoàn thành bản thảo
tập Giếng loạn, Tử đã mơ hồ nghĩ đến một thứ thơ "không giống ai".
Bây giờ đọc thơ của Chế, Hàn Mặc Tử đã tìm ra được một hướng sáng tác: những
bài thơ điên loạn. Vì vậy ngay trong ngày Chế Lan Viên và Yến Lan đem bản in
đặc biệt của tập Điêu tàn đến cho chàng xem, chàng hồ hởi công bố ngay việc
thành lập "Trường thơ loạn".
Từ đó, dưới ngọn cờ của chủ soái Hàn Mặc Tử,
các thành viên trong "Trường thơ loạn" say sưa sáng tác. Có những đêm
cả bọn đem chăn màn ra bờ biển ở lại suốt đêm để thả hồn theo những vần thơ kỳ
dị. Thơ của các thi sĩ "Trường thơ loạn tràn ngập trăng, hồn, máu, bóng
ma, sọ người, xương cốt, tinh tủy... Tất cả say sưa bước chân vào cái thế giới
rùng rợn đó. Nếu Hàn Mặc Tử thích thú với hồn để viết "Ta muốn hồn
trào ra đầu ngọn bút/Mỗi hồn thơ đều dính não cân ta/Bao nét chữ quay cuồng như
máu vọt/Như mê man chết điếng cả làn da" thì Chế Lan Viên lại
khoái... sọ người hơn: "Hỡi chiếc sọ, ta vô cùng rồ dại/Muốn riết mi
trong sức mạnh tay ta/ Để những giọt máu đào còn đọng lại/Theo hồn ta tuôn chảy
những lời thơ/Ta muốn cắn mi ra từng mảnh nhỏ/Muốn điên cuồng nuốt cả khối
xương khô".
Việc nhóm thơ Bình Định cho ra đời
"Trường thơ loạn" khiến văn thi hữu khắp nơi bàn tán xôn xao. Nhiều
người hoan nghênh nhưng cũng không ít người chê bai. Hoài Thanh kể: "Tôi
đã nghe người ta mạt sát Hàn Mặc Tử nhiều lắm. Có người bảo: Hàn Mặc Tử thơ với
thẩn gì, toàn nói nhảm ! Có người còn nghiêm khắc hơn nữa: Thơ gì mà rắc rối
thế! Mình tưởng có ý nghĩa khuất khúc gì, cứ đọc đi đọc lại hoài, thì ra nó lừa
mình!". Đặc biệt Xuân Diệu là người ghét cay ghét đắng những vần thơ điên
của Tử. Hoài Thanh kể tiếp: "Xuân Diệu có lẽ cũng nghĩ đến Hàn Mặc Tử khi
viết đoạn này: Hãy so sánh thái độ can đảm kia (thái độ những nhà chân thi sĩ)
với những cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa
kêu: Tôi điên đây! Tôi điên đây! Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu.
Nếu không biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà yên lặng sống".
Đúng là những vần thơ điên của các thi sĩ này
đã gây sốc cho nhiều người. Nhưng thật ra đó chỉ là một cách giải quyết sự bế
tắc trong tư tưởng của mình mà thôi. Hàn Mặc Tử đã dẫn dắt các thi sĩ sáng tác
khá nhiều những vần thơ kỳ dị cho đến lúc chàng rời bỏ cuộc đời vào năm 1941.
Sang năm 1942, đến lượt Bích Khê cũng vĩnh viễn ra đi. "Trường thơ
loạn" từ đó tan rã.
Nguyên nhân khởi phát căn bệnh phong của Hàn
Mặc Tử được nhiều sách báo dẫn lại như sau: Một hôm từ Sài Gòn ra Phan Thiết
thăm Mộng Cầm, chàng được Mộng Cầm dẫn đi dạo chơi lầu ông Hoàng...
Đến lúc chiều tối trở về, băng qua cánh đồng
thì gặp cơn mưa giông. Cả hai chạy vào trú trong một căn chòi bên đường. Mưa
mỗi lúc một lớn, trời tối đen như mực. Từ trong căn chòi, hai người nhìn ra bên
ngoài thấy có những quả cầu lửa màu xanh dưới đất vùn vụt bay lên. Những quả
cầu lửa chớp tắt liên tục. Đồng thời lại nghe tiếng rền vang ầm ầm như ai lăn
thùng sắt trên đường đá.
Hai người rất hoảng sợ, ngồi ôm nhau run rẩy
trong căn chòi. Một lúc trời quang mây tạnh, bước ra khỏi nơi trú mưa thì mới
biết mình đang ở cạnh một ngôi mộ ai mới chôn. Trở về Sài Gòn ít hôm, Tử thấy
ngứa ngáy khó chịu trong người. Một thời gian thì nổi lên những vết đỏ như đồng
xu ở trên lưng, sau lan dần ra khắp người. Căn bệnh phong xuất hiện từ đó.
Những thông tin này đăng tải lên kèm với lời
phê phán việc Mộng Cầm bỏ Tử đi lấy chồng trong lúc Tử bị căn bệnh quái ác hành
hạ khiến Mộng Cầm hết sức day dứt. Theo quan niệm dân gian trước nay, thì căn
bệnh phong phát ra do người ta nhiễm phải hơi dưới ngôi mộ mới bốc lên trong
lúc mưa giông. Nhiều người tin điều đó là có thật nên càng trách Mộng Cầm nhiều
hơn, rằng nàng đã gián tiếp đưa chàng đến chỗ bệnh tật rồi lại vội vã bỏ ra đi.
Tuy nhiên, ngay từ thời ấy, khoa học đã chứng
minh căn bệnh phong do loại vi trùng có tên là Hansen gây ra. Chính khi Hàn Mặc
Tử nhập bệnh viện phong Quy Hòa, bệnh viện Quy Nhơn đã làm xét nghiệm cho chàng
và tìm ra vi trùng Hansen trong cơ thể chàng.
Nhưng có một điều gây khó hiểu cho nhiều
người là việc phát bệnh của Tử lại có những chi tiết trùng hợp với quan niệm
dân gian nói trên. Nguyễn Bá Tín cho biết, chính Hàn Mặc Tử đã kể với bà mẹ về
chuyện mắc mưa giông trong nghĩa địa: "Mẹ tôi linh cảm có chuyện chẳng
lành. Bà vặn hỏi mãi thì anh kể chuyện có hôm cùng người bạn đi chơi Phan
Thiết, gần tối băng qua cánh đồng, thì gặp phải cơn mưa giông dữ dội...".
Ngay cả Mộng Cầm cũng thừa nhận có chuyện như vậy. Hãy đọc đoạn đối thoại giữa
Châu Hải Kỳ và Mộng Cầm trên tạp chí Phổ Thông số ra ngày 15/8/1961:
- "Như vậy xin lỗi bà, bà có đi lầu ông
Hoàng và có gặp mưa không?
- "Tôi nhận có đi chơi lầu ông Hoàng với
Hàn Mặc Tử, có gặp mưa, có ngồi ở nghĩa địa, nhưng không phải vì đó mà Hàn Mặc
Tử bị phong như anh Quách Tấn đã viết. Nếu Hàn Mặc Tử bị phong sao tôi không hề
hấn gì cả? Hai người cùng ngồi núp mưa một chỗ kia mà!".
Song song với câu chuyện trên, có một câu
chuyện hoang đường khác cũng liên quan đến căn bệnh phong, được truyền tụng
trong dân gian thời ấy. Đó là sự báo thù của những người chiến bại ở thành Đồ
Bàn khi xưa. Sự báo thù chỉ nhắm vào những thanh niên đẹp trai, học giỏi. Lời
đồn đại này làm cho người dân thành phố Quy Nhơn thời ấy luôn sống trong hồi
hộp lo âu. Lâu lâu ở thành Quy Nhơn, thấy vắng bóng một thanh niên khỏe mạnh,
đẹp trai là mọi người hiểu anh ta vừa phát bệnh phong, phải đi trốn. Lời đồn này
đã có từ xa xưa, trở thành một truyền thuyết lưu truyền qua nhiều thế hệ. Người
dân Bình Định, đặc biệt là Quy Nhơn, bao giờ cũng nơm nớp lo sợ sự báo thù ghê
gớm của một giống người Hời. Và thật thú vị, cũng chính những truyền thuyết này
là chất men sáng tạo cho những nhà thơ điên của thành Quy Nhơn. Chế Lan Viên
cùng với Yến Lan thường lang thang bên những tháp Chàm đổ nát để tưởng nhớ về
những người Hời huyền thoại đó. Trong bài thơ Trên đường về, Chế Lan Viên viết:
"Đây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn/Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau
đi". Hàn Mặc Tử cũng đã từng viết: "Mà vì đâu những tháp Hời kiêu
ngạo/Hằng muôn năm sống mãi dưới sương đêm".
Điều đáng tiếc nhất, là Hàn Mặc Tử, một người
rất Tây học, nghiên cứu đủ thứ về văn minh phương Tây, từ thi ca cho đến triết
học, lại không chịu tin vào Tây y. Chàng cũng bắt chước theo những người ít học
khác khi biết mình bị mắc bệnh phong là tìm một nơi hoang vu vắng vẻ để lẩn
trốn chính quyền, lẩn trốn người quen rồi chạy chữa bằng những thứ thuốc của
các lang băm. Cho đến cuối cùng, khi đã kiệt quệ sức lực thì mới chịu vào bệnh
viện. Và vì thế nên mọi chuyện đã trở nên quá muộn màng.
Những năm 1938 - 1939, Tử đau đớn dữ dội bởi
bệnh tật, nhưng trước mặt bạn bè chàng cố kìm nén. Chàng chỉ gào thét trong
thơ: "Trời hỡi! bao giờ tôi chết đi /Bao giờ tôi hết được yêu vì/Bao giờ
mặt nhật tan thành máu/Và khối lòng tôi cứng tợ si", "Tôi vẫn còn đây
hay ở đâu/Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu/Sao bông phượng nở trong màu huyết/Nhỏ
xuống lòng tôi những giọt châu".
Lúc này, sau một thời gian chữa chạy bằng
đông y, chẳng những căn bệnh phong cùi không thuyên giảm chút nào mà ngược lại
còn làm thân thể chàng ngày một tiều tụy đi vì những tác dụng phụ của thuốc.
Mặt khác, thông tin về việc chàng bị mắc bệnh phong đã đến tai chính quyền địa
phương. Do đó, chàng phải liên tục thay đổi chỗ ở để tránh sự truy đuổi gắt gao
của Sở Vệ sinh công cộng thành phố Quy Nhơn. Cuối cùng, gia đình tìm thuê cho
chàng được một nơi ở khá kín đáo trong khu lao động nghèo nằm bên cồn cát trắng
ven biển. Đó là một túp lều tranh mà theo Hoài Thanh kể là rách nát đến độ phải
lấy giấy báo và bao thư che những chỗ dột trên mái nhà.
Trong thời kỳ bệnh tật, Tử sáng tác được ba
tập thơ là Thơ điên, Xuân như ý và Thượng thanh khí. Nhưng có
điều đặc biệt là, những câu thơ của chàng cứ tiến dần đến chỗ rối rắm khó hiểu
theo tiến triển bệnh tật. Nhiều câu thơ đọc lên nghe rất hay nhưng độc giả hầu
như không ai hiểu tác giả muốn nói gì. Tuy nhiên, theo lời Quách Tấn thì, điều
lạ lùng là dù rối rắm khó hiểu như thế nhưng thơ Tử được người đời chuyền tay
nhau đọc thuộc lòng, đọc như đọc kinh, không hiểu gì cũng đọc thuộc làu làu.
Như thể thơ của chàng lúc đó có một ma lực gì. Hoài Thanh cũng xác nhận điều lạ
lùng này: "Trong ý họ, thi ca Việt Nam chỉ có Hàn Mặc Tử. Bao nhiêu thơ
Hàn Mặc Tử làm ra họ đều chép lại và thuộc hết. Mà thuộc hết thơ Hàn Mặc Tử đâu
phải chuyện dễ. Đã khúc mắc mà lại nhiều: tất cả đến sáu, bảy tập. Họ thuộc hết
và chọn những lúc đêm khuya thanh vắng họ sẽ cao giọng, ngâm một mình. Bài thơ
đã biến thành bài kinh và người thơ đã trở nên một vị giáo chủ".
Chúng ta biết rằng, lúc Hàn Mặc Tử còn sống,
chàng chỉ mới xuất bản được mỗi một tập Gái quê vào năm 1936, khi
chàng còn khỏe mạnh và có tiền. Còn phần lớn thơ chàng làm ra trong thời kỳ
bệnh tật này thì đến với người yêu thơ qua cách người này cho người khác mượn
sổ thơ để chép tay. Thơ của Tử không chỉ làm thích thú những cô cậu học sinh
trung học vốn mơ mộng mà còn lan tỏa ra nhiều giới khác. Và thật đáng ngạc
nhiên, nó còn lay động đến cả giới tu hành. Có một nữ tu trẻ đẹp chừng mười bảy
mười tám tuổi ở ngôi chùa Liên Tôn gần đó, vì ái mộ thơ Tử nên đã không ngần
ngại căn bệnh phong cùi gớm ghiếc, ghé vào căn chòi để thăm chàng. Về sau chàng
đã đưa ni cô vào trong thơ của mình với những tình cảm khá đặc biệt.
Một điều nữa, không những ma lực có ở trong
lời thơ Tử mà còn nằm trong chính con người Tử khi chàng cất giọng đọc thơ. Yến
Lan kể: "Nếu ai đã có lần nghe anh ngâm thơ thì mới cảm thấy hết cái cảm
giác kỳ lạ lần đầu bắt gặp: nôn nao, nôn nao. Và cộng với lời thơ, gây nên một
không khí mông lung. Chúng tôi như bị dồn vào thế giới nào có suối, có đồi, có
bóng dáng những cuộc hành hương, và nhạc điệu cung văn, đồng bóng".
Yến Lan, Chế Lan Viên, Hoàng Tùng Ngâm, Trần
Kiên Mỹ... là những người bạn thân thiết thường ghé thăm chàng để an ủi chàng,
một tâm hồn quá khổ đau lúc này như chàng viết: "Lòng ta sầu thảm hơn mùa
lạnh/Hơn hết u buồn của nước mây/Của những tình duyên thương lỡ dở/Của lời rên
xiết gió heo may". Bạn bè đã được nghe chàng đọc những vần thơ như chảy ra
từ xương tủy. Yến Lan kể tiếp: "Anh đã biến thành những chuỗi dài đau khổ,
cao thấp chen nhau như từng tia lửa bùng lên, như mảnh lụa tươi vàng bị xé vụn.
Anh đã lấy xác thịt minh họa cho lời thơ. Có khi chúng tôi chảy nước mắt. Còn
anh, anh đã thành một người say. Các lần ngâm thơ của anh đều diễn ra như thế
vì những bài thơ ấy đều là những bài xót xa nhất. Đặc biệt là hôm anh ngâm bài
Thánh nữ đồng trinh Maria. Xáo trộn trong đau thương, còn có nỗi trìu mến hân
hoan kỳ lạ".
Hàn Mặc Tử đã đắm mình trong cái không gian
vừa đau thương vừa bay bổng đó để làm ra những vần thơ khiến người đời say đắm
cho đến lúc chàng phải bước chân vào trại phong Quy Hòa vào ngày 20/9/1940.
Căn bệnh phong không phải là căn bệnh có thể
làm chết người một cách nhanh chóng. Đó là căn bệnh chủ yếu làm cho con người
bị tàn phế. Một bệnh nhân cùng nhập viện với Tử vào lúc ấy, ở cùng phòng bệnh
với Tử tên là Nguyễn Văn Xê vẫn tiếp tục sống thêm 55 năm nữa sau khi Tử qua
đời, cho đến năm 1995 mới mất. Có lẽ Tử cũng biết điều đó vì anh rể của Tử hồi
đó là y tá trong Bệnh viện Quy Nhơn và Tử cũng là người có trình độ hiểu biết
cao. Nhưng Tử vẫn luôn luôn nghĩ về cái chết.
Tử đã đoán trước được cái ngày mình sẽ ra đi.
Trong bài Trút linh hồn chàng viết: "Máu đã khô rồi, thơ cũng khô/Tình ta
chết yểu tự bao giờ/Từ nay trong gió, trong mây gió/Lời thảm thương rền khắp
nẻo mơ". Đó là một lời tuyên bố chắc chắn. Từ khi viết bài thơ này cho đến
lúc Tử ra đi là khoảng thời gian khá xa và Tử mất là vì bệnh kiết lỵ. Thế nhưng
chàng vẫn viết: "Ta trút linh hồn giữa lúc đây/Gió sầu vô hạn nuối trong
cây/Còn em sao chẳng hay gì cả/Xin để tang anh đến vạn ngày".
Em ở đây là ai? Có lẽ cả Hoàng Cúc, Mộng Cầm,
Mai Đình lẫn Thương Thương và nhiều hình bóng giai nhân khác. Tất cả những nàng
thơ ấy, lúc này đều đã rời xa chàng. Cách đó một thời gian, chàng đã tạm biệt
Thương Thương theo lời đề nghị của người anh ruột nàng là Trần Tái Phùng:
"Than ơi! Hỡi! Biệt ly chan chứa/Tưởng cùng em vui thú hưởng tiêu dao/Anh
sắp đi và hai hàng lệ ứa/Cả đau thương dồn dập xót tâm bào".
Lúc này, nhiều câu thơ Tử làm ra cứ như lời
tiên tri về cái chết của mình. Đây không phải là đặc điểm của những bài thơ
thuộc Trường thơ loạn như đã nói trước đây. Bởi chẳng hạn trong Điêu tàn, Chế
cũng có dùng những từ ngữ để chỉ sự chết chóc nhưng tuyệt nhiên ta không thấy
bóng dáng thần chết ở đâu mà chỉ là biểu hiện của triết lý thơ điên loạn mà
thôi. Còn một số câu thơ Tử viết về cái chết thì lại khác. Ý thơ rất là
"gở". Chẳng hạn Tử viết: "Ta còn trìu mến biết bao người/Vẻ đẹp
xa hoa của một thời/Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng/Ôi! Giờ hấp hối sắp chia
phôi".
Khoảng giữa tháng 9/1940, Tử nhắn Quách Tấn
từ Nha Trang ra Quy Nhơn gặp chàng. Lúc này chàng đã được làm xét nghiệm và
người ta đã phát hiện ra vi trùng Hansen trong cơ thể chàng.
Tử di ngôn lại cho Quách Tấn lo giữ gìn tài
sản văn chương của chàng, sau này chàng chết đi thì tùy theo đó mà xử lý. Rồi
chàng nhập bệnh viện phong. Nhập viện để chữa trị căn bệnh phong nhưng chàng
coi như mình sắp đi vào cõi chết. Vì sao vậy?
Trong Duyên kỳ ngộ, nhân vật Nàng có nói:
"Sao thơ anh nhuộm toàn màu ly biệt/Rên không thôi và nức nở cả ban
đêm". Quả đúng như vậy thật. Ly biệt và chết chóc luôn có mặt trong thơ Tử
vào thời gian sau này: "Lòng thi sĩ chứa đầy trang vĩnh biệt/Mộng có thành
là mộng ở đầu hôm", "Không ai trang điểm má đào/Cho ta say chết đêm
nào đêm nay"... Quách Tấn cho biết, viết thư cho bạn, Tử hay nói về cái
chết: "Đó là ngưỡng cửa phải bước qua để đi đến cõi vĩnh hằng". Cũng
trong vở kịch thơ độc đáo này, có một đoạn thơ làm cho nhiều người ngạc nhiên
vì nó rất giống những gì xảy ra sau này. Đó là khi nhân vật Chàng sắp sửa chia
tay nhân vật Nàng, đã thốt ra lời than khóc: "Một mai kia ở bên khe nước
ngọc/Với sương sao anh nằm chết như trăng/Không tìm thấy nàng tiên mô đến
khóc/Đến hôn anh và rửa vết thương tâm". Theo hồi ức của người bạn đồng
bệnh Nguyễn Văn Xê của Tử thì Tử mất vào ngày 11/11/1940 trong cô đơn lặng lẽ,
không có bất kỳ một người thân nào bên cạnh. Ngay buổi chiều ngày 11/11/1940,
tang lễ được tiến hành một cách đơn giản. Nơi Hàn Mặc Tử yên nghỉ nằm bên cạnh
con suối, về mùa mưa nước thường dâng đầy bờ. Điều này y như câu thơ trên mà
chàng đã viết trước đó rất lâu.
Chàng đã nằm lại bên "khe nước
ngọc" đó cho đến gần 20 năm sau mới được gia đình đưa đi nơi khác. Năm
1959, gia đình Tử cùng với người bạn thân là Quách Tấn tiến hành tìm một mảnh
đất khác cho chàng. Sinh thời chàng rất thích cảnh Đèo Son nhưng vì ở đó đang
là khu quân sự thuộc chính quyền Sài Gòn nên đành phải tìm đến Gành Ráng. Ngày
13/1/1959, Tử được cải táng về Gành Ráng.
Như vậy là, một đời thơ dữ dội của nhà thơ có
số phận lạ kỳ Hàn Mặc Tử đã kết thúc. Chàng đã được thỏa mãn cái ước ao mà ngày
nào vị phó soái của Trường thơ loạn Chế Lan Viên từng viết: "Hãy cho tôi
một tinh cầu giá lạnh/Một vì sao trơ trọi cuối trời xa/Để nơi ấy tháng ngày tôi
lẩn tránh/Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo".
Trong loạt bài này, chúng tôi đã sử dụng bút
danh Hàn Mặc Tử cho nhà thơ. Tuy nhiên cũng xin đưa ra đây vấn đề tranh cãi hai
bút danh này cho bạn đọc tham khảo. Vì đây là một cuộc tranh cãi thú vị.
Cho đến nay, những nhà sưu tầm, nghiên cứu,
những người quan tâm vẫn phân thành 2 "trường phái" khác nhau: Hàn
Mạc Tử và Hàn Mặc Tử. Vì thế các cuốn sách, bài báo in ra cũng chia làm 2 nhóm:
nhóm Mặc và nhóm Mạc.
Những "đại biểu tiên phong" cho
"trường phái Mạc" có thể kể: Giáo sư Hoàng Như Mai, Giáo sư Văn Tâm,
nhà sưu tầm Phạm Xuân Tuyển. Phạm Xuân Tuyển đã làm một bản thống kê những tài
liệu sử dụng chữ Mạc như sau: Báo Người Mới trong các số chuyên đề về Tử năm
1941, Trần Thanh Mại trong cuốn sách viết về Tử năm 1942, Hoài Thanh - Hoài
Chân trong Thi nhân Việt Nam năm 1942, Phó tiến sĩ Phùng Quý Nhâm
trên Kiến Thức Ngày Nay số 47, giáo sư Hà Minh Đức trong Tổng
tập Văn học Việt Nam số 27, giáo sư Lê Đình Kỵ trong Thơ Mới - Những
bước thăng trầm - 1993, giáo sư Vũ Ngọc Khánh trong tập Thơ tình
yêu - 1995, giáo sư Hà Vinh - Khoa tiếng Việt - Đại học Tổng hợp Hà Nội
trong Tạp chí Văn Học - 1995, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh - Phó tiến sĩ Trần
Đăng Xuyền trong sách Những bài văn hay và khó - 1995...
Còn những người theo "trường phái
Mặc" gồm những ai? Có lẽ hai người quan trọng nhất là Nguyễn Bá Tín, em
ruột nhà thơ và Quách Tấn, bạn thân nhà thơ. Nguyễn Bá Tín đã dùng Mặc trong
hai cuốn sách quan trọng của mình, cuốn Hàn Mặc Tử anh tôi - 1991
và Hàn Mặc Tử trong riêng tư - 1994. Quách Tấn cũng dùng Mặc trong
Bóng ngày qua - 2000. Những người khác có thể kể: Chế Lan Viên trong Tuyển
tập Hàn Mặc Tử - 1987, Lữ Huy Nguyên trong Hàn Mặc Tử thơ và
đời - 1994, Trần Thị Huyền Trang trong Hàn Mặc Tử hương thơm và mật
đắng, Vương Trí Nhàn trong Hàn Mặc Tử - Hôm qua và hôm nay...
Nguyễn Bá Tín cho biết, bút danh Hàn Mặc Tử
đã có trước, còn bút danh Hàn Mạc Tử chỉ là bạn bè đặt cho để trêu đùa:
"Có nhiều hôm anh ngồi thừ trên chiếc ghế mây, nhìn qua bức mành tre sáo
trước cửa, đợi chị Cúc đi ngang qua, trông anh đến thiểu não. Chị Cúc biết điều
đó, về sau kể với con gái chị Như Lễ rằng: Nghĩ tội nghiệp anh quá. Bạn bè đến
chơi trông thấy anh ngồi buồn bã như kẻ thất tình, nên thường trêu cợt anh là
con người sau bức rèm lạnh và gọi đùa anh là Hàn Mạc Tử. Chữ Hàn ở đây có nghĩa
là lạnh và chữ Mạc không dấu là bức màn. Hai chữ Hàn Mạc là bức rèm lạnh. Anh
chỉ cười, không nói gì, cũng không để ý đến nữa. Mãi về sau khi anh qua đời còn
nhiều người vẫn tưởng lầm bút hiệu của anh là Hàn Mạc Tử". Ông Tín cho
biết, Tử vốn rất ngưỡng mộ triết gia Mặc Dịch thời Chiến Quốc, nổi tiếng chủ
trương thuyết Kiêm ái, nên anh cũng tự nhận thuộc môn phái Mặc Dịch, thương yêu
hết mọi người. Chữ Mặc Tử có ý nghĩa là môn đồ Mặc Dịch. Chữ Mạc Tử thì không
có ý nghĩa gì. Chữ Hàn Mặc Tử nói lên ý nghĩa một thi sĩ nghèo nàn, nhưng tình
thương rộng rãi bao la.
Quách Tấn thì kể tỉ mỉ hơn và có phần khác
Nguyễn Bá Tín. Quách Tấn cho biết, khi mới bước vào làng thơ, Tử lấy bút danh
là Minh Duệ Thị. Sau đổi là Phong Trần. Tử nổi tiếng với bút danh Phong Trần
nhờ cuộc xướng họa thơ văn lịch sử với Phan Bội Châu. Khi Quách Tấn quen thân
Tử, Quách Tấn chê bút danh Phong Trần không hợp với Tử. Vì thế Tử đổi qua bút
danh Lệ Thanh. Bút danh này đã gắn chặt với tập thơ Lệ Thanh Thi Tập của Tử.
Nhưng được ít lâu Quách Tấn lại chê. Tử lại đổi qua Hàn Mạc Tử. Quách Tấn lại
chê nữa. Khi đó Tử nổi nóng. Quách Tấn liền gợi ý: "Đã có rèm thì thêm
bóng trăng vào. Hỏi còn cảnh nào nên thơ bằng?". Nghe vậy, Tử thêm
"bóng trăng" là dấu á trên đầu chữ a nên chữ Mạc thành ra Mặc. Từ đó
bút danh đổi nghĩa từ kiếp rèm lạnh ra anh chàng bút mực. Bút danh này khiến Tử
rất thích và dùng luôn.
Lời giải thích trên đây nghe cũng thật có lý
nhưng mấy chục năm nay vẫn không thuyết phục được những người theo "trường
phái Mạc", cho nên cuộc tranh cãi này chưa biết bao giờ kết thúc nếu không
tìm được bút tích của chính nhà thơ để chứng minh ai đúng ai sai.
Chuyên đề:
Triều
đại Tây Sơn và những chính sách cải cách
của Quang Trung
Biên niên các sự kiện thời Tây Sơn:
- 1771: Anh em Tây Sơn nổi dậy
- 1776: Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương
- 1777: Nguyễn Huệ tiêu diệt chúa Nguyễn tại Gia Định
- 1778: Nguyễn Nhạc xưng đế, đặt tên hiệu là Thái Đức
- 1780: Nguyễn Ánh xưng vương tại Gia Định
- 1782: Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đuổi, chạy ra Phú Quốc.
- 1783: Nguyễn Ánh lánh nạn tại Côn Sơn.
- 1785: Nguyễn Huệ đánh bại quân Xiêm tại Rạch Gầm - Xoài Mút.
Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm.
- 1786: Nguyễn Huệ lật đổ chúa Trịnh
- 1787: Nguyễn Ánh trở về lại Long Xuyên
- 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế
- 1789: Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Nguyễn Ánh lấy thành Gia
Định
- 1792: Vua Quang Trung mất - 1793: Nguyễn Nhạc mất
- 1799: Nguyễn Ánh chiếm thành Qui Nhơn
- 1801: Nguyễn Ánh lấy được Phú Xuân
1. Sự thiết lập Vương triều Tây Sơn
Tháng 3-1776, Nguyễn Nhạc tự xưng Tây Sơn Vương, đúc ấn vàng, xây
lại thành Đồ Bàn, phong cho Nguyễn Huệ làm Phụ chính, Nguyễn Lữ làm Thiếu phó.
Đầu năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng Hoàng đế, lấy niên hiệu là Thái Đức, đổi
thành Đồ Bàn làm thành Hoàng đế, phong cho Nguyễn Huệ làm Long nhượng tướng
quân, Nguyễn Lữ làm Tiết chế. Triều đại Tây Sơn chính thức được thành lập,
nhưng thực chất vẫn còn là bộ tham mưu tối cao của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Năm
1786, sau khi tiến quân ra Bắc, lật đổ chính quyền họ Trịnh, Nguyễn Huệ rút
quân về Nam, Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung ương Hoàng đế, quản lý khu đất ở
giữa, chạy dài từ Quảng Nam vào đến cực nam Trung Bộ ngày nay, phong cho Nguyễn
Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra Nghệ An, phong
cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, trông coi vùng đất Gia Định. Hoạt động của
Nguyễn Lữ ở Gia Định chỉ thu hẹp trong phạm vi là một viên tướng đồn trú ở
trong thành và chia quân đóng giữ. một số đồn luỹ, không đề ra và thực hiện
được những chính sách kinh tế, chính trị, xã hội nào tích cực của một chính
quyền phong kiến. Thời gian tồn tại của Đông Định Vương chỉ trong vòng hơn một
năm (1786-1787). Năm 1787, Nguyễn ánh từ Xiêm đem quân về đánh Long Xuyên.
Nguyễn Lữ sợ hãi bỏ Gia Định chạy về Biên Hoà, sau lại chạy về Quy Nhơn và bị
bệnh chết. Vùng Gia Định từ tháng 9-1788 lại thuộc về Nguyễn Ánh.
Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc từ sau năm 1786 thỏa mãn với thắng
lợi, không còn ý chí quật khởi, ngồi hưởng lạc "chỉ mong giữ lấy một phủ
Quy Nhơn, tự giáng mình làm Tây chúa", "ham nhàn vui, cầu yên tạm bợ,
không lo đến hậu hoạ". Từ năm 1790 đến 1793, Nguyễn Ánh liên tiếp tấn công
ra Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh và vây thành Quy Nhơn (1793). Nguyễn Nhạc
bất lực phải nhờ quân cứu viện của chính quyền Quang Toàn (Cảnh Thịnh). Các
tướng sĩ của Quang Toàn giải vây Quy Nhơn, đánh bại quân Nguyễn Ánh rồi chiếm
luôn cả thành trì. Nguyễn Nhạc uất lên mà chết, chính quyền của Nguyễn Nhạc đến
đây kết thúc.
2. Triều đại Quang Trung
Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), trước khi đem quân ra Bắc
tiêu diệt quân Thanh xâm lược, Nguyễn Huệ xưng đế đặt niên hiệu là Quang Trung.
Phạm vi quản lý của triều đại Quang Trung trong những năm 1789-1792 bao gồm
toàn bộ Bắc Hà vào đến đèo Hải Vân. Trên phạm vi đó, triều đại này đã ban hành
nhiều chính sách, biện pháp cải cách tiến bộ.
- Về kinh tế.
Quang Trung ban "chiếu khuyến nông", lệnh cho dân phiêu
tán trở về quê khôi phục ruộng đồng bỏ hoang. Những xã nào chứa chấp kẻ trốn
tránh đều bị trừng phạt. Sau một thời hạn mà ruộng công còn bỏ hoang thì phải
nộp thuế gấp đôi, ruộng tư thì bị sung công... Do đó, chỉ trong vòng 3 năm sau,
nông nghiệp được phục hồi. Năm 1791 "mùa màng trở lại phong đăng, năm phần
mười trong nước khôi phục được cảnh thái bình.
Đối với công thương nghiệp, Quang Trung khuyến khích đẩy mạnh sản
xuất thủ công nghiệp, mở rộng ngoại thương trên cơ sở phục hồi và phát triển
nông nghiệp. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn đó, ngay từ những ngày đầu của
chính quyền mới, Quang Trung chủ trương phát triển mọi ngành sản xuất nhằm xây
dựng một nền kinh tế phồn vinh, độc lập, tự chủ trong đó có công thương nghiệp.
Chủ trương khuyến khích phát triển công thương nghiệp của Quang
Trung được thể hiện ở sắc lệnh "khoan thư" sức dân. Năm 1789, Quang
Trung bãi bỏ thuế điền cho nhân dân từ sông Gianh ra Bắc, động viên các tầng
lớp nhân dân lao động phấn khởi sản xuất.
Để thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá thuận lợi, Quang Trung
cho đúc tiền đồng mới (Quang Trung thông bảo và Quang Trung đại bảo). Đối với
nước ngoài, Quang Trung chủ trương mỏ rộng trao đổi buôn bán, đấu tranh nuộc
nhà Thanh phải mở cửa biên giới để buôn bán với nước ta như ải Bình Nhi, Thuỷ
Khẩu (Cao Bằng), Hoa Sơn (Lạng Sơn), Du Thôn... Đối với thuyền buôn của các
nước tư bản phương Tây, Quang Trung tỏ ra rộng rãi, mong muốn họ tăng cường
quan hệ ngoại thương với Việt Nam, nhờ vậy, tình hình thương nghiệp (nội thương
và ngoại thương) nước ta thời Quang Trung được phục hưng và phát triển. Mô tả
Thăng Long bấy giờ, nhà nho Nguyễn Huy Lượng sống dưới thời Tây Sơn viết:
"Lò Thạch khối khói tuôn nghi ngút, thoi oanh nọ ghẹo hai phường dệt gấm,
lửa đom đóm nhen năm xã gây lò", và "rập rình cuối bãi đuôi nheo,
thuyền thương khách hãy nhen buồm bươm bướm" (Phú Tụng Tây Hồ).
Nền ngoại thương nước ta thời Quang Trung khác hẳn với ngoại
thương thời Vua Lê chúa Trịnh, chúa Nguyễn trước đó. Nó xuất phát từ yêu cầu
nội tại của nền kinh tế và đời sống của nhân dân, từ yêu cầu đẩy mạnh nền kinh
tế hàng hoá. Tư tưởng "thông thương" tiến bộ của Quang Trung đã thể
hiện nhãn quan kinh tế rộng mở phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và
thời đại, "mở cửa ải, thông thuơng buôn bán, khiến cho các hàng hoá không
ngừng đọng để làm lợi cho dân chúng".
- Về chính trị, quốc phòng.
Sau khi đánh bại 30 vạn quân Thanh xâm lược (1789), Vương triều
Quang Trung ra sức xây dựng một chính quyền phong kiến mới tiến bộ với ý thức
quản lý đất nước trên một phạm vi rộng lớn dưới một chính quyền trung ương tập
trung mạnh. Xuất phát từ nhận thức "Trẫm là kẻ áo vải đất Tây Sơn, không
có một tấc đất, tự nghĩ mình tài đức không theo kịp cổ nhân mà đất đai rộng lớn
như thế, nghĩ đến việc cai quản, lo sợ như cầm dây cương mục mà dong sáu
ngựa", nên trong công cuộc xây dựng chính quyền mới, Quang Trung rất chú
trọng "Cầu hiền tài". Đối với những nho sĩ, trí thức, kể cả quan lại
trong chính quyền cũ có tài năng, trí tuệ, có nhiệt tình xây dựng đất nước,
Quang Trung đều cố gắng thuyết phục và sử dụng họ vào bộ máy nhà nước mới, đặt
họ ở những chức vụ cao tương xứng với tài năng của họ. Ngô Thời Nhậm, Phan Huy
Ích, Nguyễn Thiếp, v.v., là những học giả tiêu biểu trong số nho sĩ này.
Để đáp ứng nhu cầu xây dựng chính quyền mới và đào tạo quan lại
mới, bên cạnh phương thức "tiến cử", "cầu hiền tài" Quang
Trung đã ban hành chính sách "khuyến học", mở rộng chế độ học tập,
thi cử. Trường học được mở rộng đến các làng xã, cho phép các địa phương sử
dụng một số đền chùa không cần thiết làm trường học. Về nội dung, bỏ lối học từ
chương khuôn sáo, cải tiến dần theo hướng thiết thực, bắt các nho sinh, sinh đồ
ở các triều đại trước phải thi lại. Người nào xếp loại ưu thì mới được công
nhận cho đỗ, hạng liệt phải về học lại, còn hạng sinh đồ 8 quan do bỏ tiền ra
mua trước đó (thời Lê - Trịnh) đều bị đuổi về chịu lao dịch như dân chúng.
Chủ trương phát triển giáo dục, thi cử để đào tạo nhân tài cho đất
nước trong công cuộc phục hưng của chính quyền mới được Quang Trung nói rõ:
"Dựng nước lấy học làm đầu, lấy nhân tài làm gốc. Trước đây bốn phương
nhiều việc phải phòng bị, việc học không được sửa sang, khoa cử bỏ dần, nhân
tài ngày càng thiếu thốn... Trẫm khi vừa mới bình định đã có nhã ý hậu đãi nhà
nho, lưu tâm, mến kẻ sĩ, muốn có người thực tài để dùng cho quốc gia".
Xuất phát từ nhận thức đó ngay từ năm 1789, Quang Trung đã cho mở khoa thi
Hương đầu tiên ở Nghệ An, chọn lấy những người đỗ tú tài hạng ưu cho vào dạy
trường quốc học, hạng thứ cho vào dạy ở trường phủ học. Quang Trung chủ trương
từng bước đưa khoa cử thành một phương thức đào tạo quan chức cho nhà nước
phong kiến mới.
Trên cơ sở tăng cường và củng cố hoạt động của bộ máy nhà nước tập
trung mạnh, chính quyền đã thực hiện được chức năng quan trọng và lớn lao bấy
giờ đối với xã hội là tập hợp được các lực lượng tích cực trong toàn đất nước,
đẩy lùi được cuộc chiến tranh xâm lược của ngoại bang, ổn định tình hình chính
trị, xã hội, củng cố được nhà nước quân chủ tập quyền, từng bước phục hưng,
phát triển văn hoá, giáo dục và kinh tế.
Quang Trung chủ trương xây dựng một đội quân hùng mạnh, củng cố
quốc phòng. Quân đội chia làm 5 doanh: trung, tiền, hậu, tả, hữu. Ngoài ra còn
có thêm một số quân hiệu khác như tả bật, hữu bật, kiều thanh, thiên cán. Quân
đội được biên chế theo đạo, cơ, đội. Nhà nước quy định cứ 3 suất đinh tuyển một
lính. Năm 1790, làm sổ hộ tịch để căn cứ vào đó tuyển binh.
Quân đội có các binh chủng: bộ binh, thuỷ binh, tượng binh, pháo
binh. Vũ khí có nhiều loại, có loại được cải tiến như hỏa hổ (một loại ống phun
lửa), có súng trường, đại bác, giáo mác, cung, tên. Chiến thuyền cũng nhiều
loại, loại lớn chở được cả voi, trang bị từ 50 đến 60 khẩu đại bác, chở được từ
500 đến 700 lính.
Với một lực lượng quân đội mạnh, Quang Trung đã trấn áp được các
thế lực phong kiến phản động, bảo vệ được chính quyền mới và có cơ sở để thực
hiện một chính sách đối ngoại tích cực, kiên quyết bảo vệ độc lập, toàn vẹn
lãnh thổ của quốc gia và nâng cao địa vị của nước ta thời bấy giờ đối với nước
ngoài.
- Về văn hoá giáo dục.
Quang Trung lập Sùng Chính Viện chuyên dịch sách chữ Hán ra chữ
Nôm làm tài liệu học tập và giúp vua về mặt văn hoá. Mục đích của Quang Trung
là nhằm đưa chữ Nôm lên thành quốc ngữ chính thức thay cho chữ Hán. Bên cạnh
Nho giáo, Quang Trung vẫn chấp nhận Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Chữ Nôm được
đưa vào khoa cử, trong các kỳ thi quan trường phải ra đề thi bằng chữ Nôm,
người thi đến kỳ tam trường phải làm thơ, phú bằng văn Nôm. Chữ Nôm trở thành
văn tự chính thức của quốc gia dưới triều Quang Trung, một thành quả quan trọng
trong lịch sử đấu tranh và bảo tồn nền văn hoá dân tộc, chống chính sách đồng
hoá của các triều đại phương Bắc đô hộ nước ta. Những chính sách văn hoá, giáo
dục của Quang Trung chứng tỏ ông có hoài bão xây dựng một nền học thuật, giáo dục
đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao ý thức độc lập, tự cường cho nhân dân.
Những cải cách của Quang Trung có nhiều mặt tích cực, thể hiện một
tư tưởng tiến bộ nhằm đưa đất nước nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng sau
chiến tranh kéo dài để vươn lên sánh vai cùng các quốc gia phát triển đương
thời, những chính sách cải cách đó đã và sẽ tạo khả năng mở đường, phát triển
của đất nước, của dân tộc.
Tuy nhiên, về mặt thực hiện những chính sách cải cách của Quang
Trung đã gặp nhiều trở ngại, thời gian thực hiện lại quá ngắn ngủi. Ngày 29
tháng 7 năm Nhâm Tý (1792), Quang Trung - Nguyễn Huệ - người anh hùng của dân
tộc, đột ngột qua đời giữa lúc những cải cách mới được bắt đầu thực hiện. Triều
đại Quang Toản tiếp sau đó bất lực, không còn tiếp tục thực hiện được những cải
cách của Quang Trung và đã bị Nguyễn Ánh lật đổ vào đầu năm 1802.
Thái Đức Hoàng Đế (1778-1793)
1.Triều Tây Sơn (1778-1802)
Anh em Tây Sơn vốn người họ Hồ, cháu hậu duệ của Trạng nguyên Hồ
Hưng Dật (thế kỷ thứ 10). ông tổ của Tây Sơn ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An,
khoảng nǎm 1653-1657 bị quân của chúa Nguyễn đánh ra Đàng Ngoài bắt đem về cho
ở ấp Tây Sơn (nay là An Khê, Hoài Nhơn, Bình Định), từ đó đổi thành họ Nguyễn.
Ông Nguyễn Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng sinh ba con trai:
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ.
Gia đình ông Phúc làm nghề buôn trầu cau, cuộc sống cũng khá giả.
Anh em Nguyễn Nhạc theo học giáo Hiến. Giáo Hiến vốn là môn khách của Trương
Vǎn Hạnh, ngoại hữu dưới thời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777).
Sau Trương Vǎn Hạnh bị Trương Phúc Loan giết, giáo Hiến sợ phải chạy vào ở ẩn
tại Quy Nhơn, mở trường dạy học ở ấp Yên Thái.
Lúc đó quyền thần Trương Phúc Loan tác oai tác quái, lấn lướt nhà
chúa, lòng người ai cũng cǎm ghét.
Hằng ngày anh em Tây Sơn được giáo Hiến dạy cả vǎn lẫn võ, đồng htời khích lệ
bởi câu sấm:
"Tây khởi nghĩa, Bắc thu công" Nǎm Tân Mão - 1771, anh em Tây Sơn
phất cờ khởi nghĩa với khẩu hiệu chiến lược: "Lật đổ quyền thần Trương
Phúc Loan, phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương". Quân Tây Sơn thường lấy của
những nhà giàu rồi phân phát cho dân nghèo, do đó nhân dân các nơi theo về rất
đông.
Trải qua 8 nǎm chiến đấu gian khổ, nǎm Mậu Tuất - 1778, quân Tây
Sơn đã diệt được chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng dế lập nên Triều đại nhà Tây Sơn, đặt
niên hiệu là Thái Đức, phong cho Nguyễn Huệ là Long Nhương tướng quân.
Nǎm 1777, chúa Nguyễn Phúc Thuần và Hoàng tôn Dương đều bị chết
trong trận đánh ở Long Xuyên, chỉ còn Nguyễn Ánh chạy thoát ra đảo Thổ Chu.
Nǎm 1784, Nguyễn Ánh cầu viện vua Xiêm cho hai vạn quân thuỷ và
300 chiến thuyền sang xâm lược nước ta, bị Nguyễn Huệ đánh tan trên đoạn sông
Rạch Gầm - Soài Mút (Định Tường).
Nǎm 1786, Hoàng đế Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đem quân ra đánh thành Thuận Hoá
của chúa Trịnh vào tháng 5/1786. Trên đà thắng lợi, với khẩu hiệu "phù Lê
diệt Trịnh", ngày 25/6 Nguyễn Huệ tiến quân ra cố đô Thǎng Long. Nghe tin
Nguyễn Huệ chiếm được thành Thǎng Long, Nguyễn Nhạc sợ không kiềm chế được
Nguyễn Huệ, vội thân hành đem quân bản bộ ra Bắc Hà.
Vua Lê Hiển Tông nghe tin, đem trǎm quân ra ngoài cõi đón vua Tây
Sơn. Nguyễn Huệ ra tận ngoại ô đón anh và tạ tội tự chuyên của mình.
Về đến kinh đô, Nguyễn Huệ đưa công chúa Ngọc Hân ra chào vua anh.
Nguyễn Nhạc khen:
- Chà, em vua Tây Sơn làm rể vua nước Nam "môn đương hộ
đối" mối nhân duyên thật đẹp!
Sau khi từ Bắc Hà trở về, tháng 4 nǎm Đinh Mùi - 1787, Nguyễn Nhạc
chia vùng đất phía Nam ra làm ba:
- Từ đèo Hải Vân trở ra Bắc thuộc về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.
- Đất Gia Định thuộc về Đông Định Vương Nguyễn Lữ.
- Nguyễn Nhạc đóng đô ở Qui Nhơn xưng là Trung ương Hoàng đế.
Nǎm 1793, Nguyễn Nhạc mất, làm vua được 15 nǎm.
2. Hoàng đế Quang Trung (1788-1792)
Hoàng đế Quang Trung tên huý là Nguyễn Huệ (tức Hồ Thơm), sinh nǎm
Quý Dậu - 1752. Nguyễn Huệ có nhiều đặc điểm: tóc quǎn, da sần, tiếng nói sang
sảng như chuông, cặp mắt sáng và tinh anh.
Nguyễn Huệ là trụ cột của nghĩa quân Tây Sơn, đã góp nhiều công
lao to lớn, đập tan chúa Nguyễn ở Đàng Trong, được vua Tây Sơn phong cho làm
Long nhương Tướng quân và được trao quyền cầm quân đánh đông dẹp bắc, là vị
tướng có tài hành quân chớp nhoáng, đánh đâu được đấy, bách chiến bách thắng.
Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc lật nhào chúa Trịnh chuyên quyền, tôn
phò nhà Lê.
Sau khi vua Lê Hiển Tông tiếp kiến Nguyễn Huệ ở điện Vạn Thọ, nhà
vua đã phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên suý Dực chính phù vận Uy quốc công. Với
sự sắp xếp khéo léo của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Hiển Tông đã gả công chúa Ngọc
Hân cho Nguyễn Huệ.
Tháng 7/1786, một đêm mưa to gió lớn, kinh đô Thǎng Long ngập hàng
thước nước, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi.
Công chúa Ngọc Hân khi được chồng hỏi nên lập ai lên ngôi báu, đã
nghiêng về Lê Duy Cận. Nghe lời vợ, Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đǎng quang của Lê
Duy Kỳ. Cả triều đình xao xuyến ngờ vực. Các tôn thất nhà Lê cho rằng Ngọc Hân
cố tình làm lỡ việc lớn của triều đình và bảo sẽ từ mặt công chúa. Ngọc Hân sợ,
vội nói với Nguyễn Huệ thu xếp cho Lê Duy Kỳ lên ngôi vua.
Ít lâu sau, Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút
quân về Nam.
Tháng 4/1788. Lê Chiêu Thống đã bỏ kinh đô chạy ra ngoài, Bắc bình
vương Nguyễn Huệ phải đem quân ra Bắc lần thứ 2 dẹp loạn. ông đã tổ chức lại hệ
thống cai trị ở Bắc Hà, đưa các danh sĩ có tên tuổi như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy
ích ra đảm đương công việc.
Sau khi đã lập Sùng nhượng công Lê Duy Cận làm Giám quốc, Nguyễn
Huệ lại rút quân về Phú Xuân.
Cuối nǎm 1788, Lê Chiêu Thống đưa đường cho đội quân xâm lược Mãn Thanh về
chiếm đóng kinh đô Thǎng Long.
Đại tư mã Ngô Vǎn Sở đã bàn với Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích và các
mưu thần khác, chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn chờ lệnh.
Nghe tin cấp báo, ngay ngày hôm sau, 25 tháng 11 nǎm Mậu Thân
(22/12/1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Chiều ý các tướng và để sáng
tỏ danh nghĩa với cả nước, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế niên hiệu Quang Trung.
Ngày 29 tháng 11 nǎm Mậu Thân (26/12/1788), đại binh của hoàng đế
Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày, tuyển thêm hàng vạn trai
tráng Nghệ An vào nghĩa quân Tây Sơn, nâng quân số lên 10 vạn, với đội tượng
binh 200 voi chiến. Nguyễn Huệ tổ chức 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung
quân. Những binh sĩ mới tuyển ở Nghệ An, chưa quen chiến trận, chưa qua thao
luyện được đặt vào đạo trung quân do chính hoàng đế trực tiếp chỉ huy.
Hoàng đế Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để
khích lệ ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn
Thanh.
Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung cưỡi voi thúc quân tiến ra Bắc
Hà.
Ngày 20 tháng Chạp nǎm Mậu Thân (15/1/1789), đại quân của Quang
Trung đã ra đến Tam Điệp, Ninh Bình.
Trước khi bước vào chiến dịch, vua Quang Trung nói với quan quân rằng:
- Nay ta tới đây thân đốc việc binh, chiến thư ra sao đã có phương
lược sẵn. Chỉ nội mười ngày nữa, thế nào cũng quét sạch giặc Thanh. Song ta
nghĩ: nước Thanh lớn hơn nước ta gấp 10 lần, Thanh bị thua tất hổ thẹn, chắc
phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ để binh lửa kéo dài mãi, thật không phải là phúc
cho trǎm họ, lòng ta không nỡ! Nên chi, sau khi thắng, ta nên khéo đường từ
lệnh thì mới dập tắt được ngọn lửa chiến tranh, việc từ lệnh đó ta giao cho Ngô
Thì Nhậm.
Đúng như dự kiến và lời hứa hẹn của vị tổng chỉ huy, với tài dùng
binh táo bạo, thần tốc, ngày 5 tháng Giêng nǎm Kỷ Dậu - 1789, đội quân bách
chiến bách thắng của hoàng đế Quang Trung đã đánh tan 29 vạn quân Mãn Thanh,
tiêu biểu là trận Ngọc Hồi - Đống Đa do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, tiến vào
giải phóng Thǎng Long.
Sau chiến thắng Đống Đa, Nguyễn Huệ vội trở lại Phú Xuân để lo
việc diệt Nguyễn Ánh, trao lại binh quyền cho Ngô Vǎn Sở và Ngô Thì Nhậm.
Theo phương lược ngoại giao đã được Quang Trung vạch sẵn, với tài
ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, nước ta đã bình thường được mối bang giao
với nhà Thanh, buộc sứ Thanh phải vào tận Phú Xuân để phong vương cho Nguyễn
Huệ; rồi hoàng đế Quang Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi
của vua Càn Long nhà Thanh.
Nǎm 1792, sau khi gửi thư đến vua nhà Thanh xin được sánh duyên
cùng một nàng công chúa bắc quốc và xin hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây làm
đất đóng đô, vua Quang Trung đã sai đô đốc Vũ Vǎn Dũng làm chánh sứ sang triều
kiến vua Càn Long. Vua Càn Long đã chuẩn tấu gả công chúa khuê các sang đẹp
duyên cùng quốc vương nước Nam và tỉnh Quảng Tây được hứa sẽ nhường cho quốc
vương phò mã đóng đô.
Giữa lúc đoàn sứ bộ đang mừng vui vì sắp hoàn thành sứ mệnh được giao, thì nhận
tin sét đánh: vua Quang Trung đã từ trần. Mọi việc đều bị gác lại. Vũ Vǎn Dũng
đành ôm hận trở về nước.
Một buổi chiều đầu thu nǎm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm
việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi là chứng
"huyễn vận", còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não. Khi
tỉnh dậy, nhà vua cho triệu trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về triều bàn
việc thiên đô ra Nghệ An. Nhưng việc chưa quyết xong thì bệnh tình nhà vua đã
nguy kịch. Trước khi mất, nhà vua đã cǎn dặn Trần Quang Diệu và các quần thần.
- Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau
ốm, tất không khỏi được. Thái tử (Nguyễn Quang Toản) tư chất hơi cao, nhưng
tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định (Nguyễn Ánh) là quốc thù, mà Thái Đức
(Nguyễn Nhạc) thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo
về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lao
thảo thôi. Lũ ngươi nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô (Vinh
ngày nay) để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo đến thì các ngươi
không có chỗ chôn đâu!
Ngày 29 tháng 7 nǎm Nhâm Tý - 1792 vào khoảng 11 giờ đêm, Quang
Trung Nguyễn Huệ từ trần, ở ngôi được 4 nǎm, thọ 41 tuổi. Biết bao dự kiến to
lớn của người anh hùng kiệt xuất của dân tộc chưa thực hiện được!
Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi vua cha.
3. Hoàng đế Cảnh Thịnh (1793-1802)
Vua Quang Trung mất, Nguyễn Quang Toản là con trưởng mới 10 tuổi
lên ngôi vua nǎm Quý Sửu - 1793, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh.
Quang Toản lên ngôi vua, dùng cậu là Bùi Đắc Tuyên làm thái sư
giám quốc trông coi mọi việc trong ngoài. Vì Quang Toản còn nhỏ quá, Bùi Đắc
Tuyên ngày càng chuyên quyền nên trong ngoài đều oán, đại thần trong triều
ngoài trấn nghi kỵ lẫn nhau.
Bọn cận thần gièm pha rằng Trần Quang Diệu oai quyền quá lớn, mưu
đồ cướp ngôi, Quang Toản tin là thật, rút hết binh quyền của Trần Quang Diệu.
Sau Trần Quang Diệu bị giết.
Nǎm Canh Thân - 1800, Nguyễn Ánh vượt biển ra đánh thành Quy Nhơn,
tướng Tây Sơn là Vũ Tuấn đầu hàng.
Nǎm Tân Dậu - 1801, Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân, Quang Toản chống giữ
không nổi, Phú Xuân bị chiếm, Quang Toản phải chạy ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là
Bảo Hưng.
Ngày 16 tháng 6 nǎm Nhâm Tuất - 1802, Nguyễn Ánh tập trung lực
lượng đánh chiếm Thǎng Long. Không chống đỡ nổi, Cảnh Thịnh cùng em là Quang
Thuỳ bỏ thành chạy theo hướng Bắc, bị bọn thổ hào đất Kinh Bắc bắt được, đóng
cũi đưa về Thǎng Long.
Mùa đông nǎm 1802, Nguyễn Ánh về Phú Xuân cáo tế miếu, trả thù Tây
Sơn cực kỳ tàn bạo, Quang Toản cùng toàn gia cũng như một số tướng lĩnh Tây Sơn
bị hành hình?.
Quang Toản lên ngôi vua nǎm 1793, đến nǎm 1802 thì bị giết ở tuổi
20, ở ngôi được 9 nǎm. Như vậy triều Tây Sơn kể từ vua Thái Đức đến hết Cảnh
Thịnh tồn tại được 24 nǎm (1778-1802).
DANH SÁCH DỊCH VỤ Ở PHÚ YÊN – BÌNH ĐỊNH
I/ PHÚ YÊN
1/ Khách sạn
Coralina Hotel
Địa chỉ: 335 Lê Duẩn, Phường7, Tuy Hòa,
Phú Yên
Email: sales@coralinahotel.com
Hotline: 02573 866 869
Sala Hotel
Độc Lập, Tuy Hòa, Phú Yên, Tuy Hòa, Vietnam
Tel:1900 6406 – E: sale1.thbeach@salahotelgroup.com – W: www.salahotelgroup.com
Khách sạn Sài Gòn Phú Yên
541, Trần Hưng Đạo, P. 6, Thành phố Tuy Hòa,
T. Phú Yên
+(84-57) 3 823 775; (84-57) 3 822 999;
(84-57) 3 889 889
Khách sạn Linh
27, Trần Bình Trọng, P. 3, Thành phố Tuy Hòa,
T. Phú Yên
+(84-57) 3 824 783; (84-57) 3 600 990
Khách sạn Khánh Hòa
625-627, Đại lộ Hùng Vương, P. 6, Thành phố
Tuy Hòa, T. Phú Yên
+(84-57) 3 848 589
Khách sạn Hoàng Vy
250, Hùng Vương, P. 7, Thành phố Tuy Hòa,
T. Phú Yên
+(84-57) 3 843 262
Khách sạn Anh Tuấn
324-326, Hùng Vương, P. 7, Thành phố Tuy Hòa,
T. Phú Yên
Khách sạn Hoàng Ngọc
173, Nguyễn Thái Học, P. 5, Thành phố Tuy
Hòa, T. Phú Yên
Kaya Hotel
238, Hùng Vương, P. 7, Thành phố Tuy Hòa,
T. Phú Yên
+(84-57) 3 819 999
Khách sạn Như Ý
7, Nguyễn Công Trứ, P. 1, Thành phố Tuy Hòa,
T. Phú Yên
+(84-57) 3 827 639
An Phát hotel
35D, Lê Lợi, P. 1, Thành phố Tuy Hòa,
T. Phú Yên
Khách sạn Thanh Bình
126, Lê Thánh Tôn, P. 3, Thành phố Tuy Hòa,
T. Phú Yên
+(84-57) 3 823 942
Khách sạn Sun Flower
Ad: 341 Lê Duẩn, Tuy Hòa, Vietnam
Tel: 0257 2202 222 – E: sm@sunflowertuyhoahotel.com – W:sunflowertuyhoahotel.com
Khách sạn Royal Khanhotline: 0886.71.73.79
Address: 68 Nguyễn Huệ, Phường 5, Tp Tuy Hòa,
Tỉnh Phú Yên Việt Nam
Phone: (+84)2573.669.669
Email: info@royalkhanhhotel.com
Website: http://royalkhanhhotel.com
2/ Nhà Hàng
Nhà hàng Phú Anh Tuy Hoa
Add: 123 AB Nguyễn Huệ . P5 , Tuy Hòa,
Vietnam
Tel:037 806 3939
Nhà hàng cơm niêu Năm Ánh
Add: 394 Hùng Vương, Tuy Hòa, Vietnam
T: 093 548 73 77 – E: salecomnieunamanh@gmail.com – W:www.comnieuphuyen.com
Nhà hàng Đại Dương
Điện thoại: 077.220.2882 – 090.569.4339
Email: sale@daiduongtuyhoa.com
Địa chỉ: A12 Hùng Vương – Tuy Hoà – Phú
Yên
Nhà hàng Hoàng Gia
Điện thoại: 0888 666 456
Email:
Địa chỉ: 259 Hùng Vương, Phường 9, Tuy
Hòa, Phú Yên
Nhà hàng cơm niêu Tuy Hoà
Điện thoại: 0905128170
Email: comnieutuyhoa@gmail.com
Địa chỉ: 111 Lê Thành Phương, P 8, TP
Tuy Hòa, Tỉnh Phú Yên
Website: comnieutuyhoa.com
Nhà hàng Làng Chài Phù Đổng
ĐC: 407 Lê Duẩn - Phường 9 - TP Tuy Hòa - Phú
Yên, Tuy Hòa, Vietnam
T: 088 671 08 08
E:langchaiphudong@gmail.com
W: ivoryhotel.com.vn
Nhà hàng Chúc Xíu
ĐC: 5 Độc Lập, Tuy Hòa, Vietnam
T: 070 327 9999
II/ BÌNH ĐỊNH
1/ Khách sạn
KHÁCH SẠN EDEN
60 Mai Xuân Thưởng Phường Lê Hồng Phong,
Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
sales@edenquynhonhotel.com
02566252222
KHÁCH SẠN LAKE VIEW QUY NHƠN
44 Bình Hà Phường Thị Nại, Thành phố Quy
Nhơn, Tỉnh Bình Định
sales@lakeviewquynhon.com
(0256) 3891889
- Khách sạn Hoàng Yến 2
04 Phan Chu Trinh Phường Hải Cảng, Thành phố
Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
02563894499
Khách sạn Hương Việt
102 Xuân Diệu Phường Hải Cảng, Thành phố Quy
Nhơn, Tỉnh Bình Định
0256 6253 333
sales@huongviethotelqn.vn
Khách sạn Sài Gòn – Quy Nhơn
24 Nguyễn Huệ Phường Lê Lợi, Thành phố Quy
Nhơn, Tỉnh Bình Định
0256 3829922
sales3@saigonquynhonhotel.com.vn
Khách Sạn Hương Giang
56 Lê Hồng Phong, Phường Lê Lợi, Thành phố
Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
khachsan@gmail.com
0256 3821 747
Khách sạn Ngọc Hương
221 Nguyễn Huệ, Phường Trần Phú, Thành phố
Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
0961380933
ngochuonghotel@gmail.com
Khách Sạn Ngọc Trung
49 Nguyễn Huệ Phường Trần Phú, Thành phố
Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
khachsan@gmail.com
0905631969
Khách Sạn Fleur De Lys Quy Nhơn 4 Sao
16 Nguyễn Huệ Phường Lê Lợi, Thành phố Quy
Nhơn, Tỉnh Bình Định
(0256) 3 666 888
sales@fleurdelys.vn
Khách Sạn Quy Nhơn Blue Sea
06 Bùi Tư Toàn Phường Nguyễn Văn Cừ, Thành
phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
quynhonbluesea@gmail.com
Phương Đông Hotel & Apartment
03/21 Ngô Mây Phường Nguyễn Văn Cừ, Thành phố
Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
(0256) 3747 767
phuongdonghotelqn@gmail.com
Khách Sạn Viet Nam Taste
96 Xuân Diệu Phường Hải Cảng, Thành phố Quy
Nhơn, Tỉnh Bình Định
(0256) 364 3333
vietnamtastehotel@gmail.com
Khách sạn kim ngân
71 Trần Anh Tông Phường Nguyễn Văn Cừ, Thành
phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
(0256) 3646.349
kskimngan.td@gmail.com
2/ Nhà Hàng – Quán Ăn
-
Nhà
hàng hải sản Coco Jambo
Địa chỉ: Thôn Lý Hưng, Xã Nhơn Lý, TP. Quy
Nhơn, Bình Định
Hotline: 098 8177 709 - Website: www.cocojambo.vn - Fanpage: Coco Jambo Quy
Nhơn
-
S.Blue
Restaurant & Bar
Địa chỉ: Đường biển Xuân Diệu, TP. Quy Nhơn
Hotline: 0256 3663 888 - Fanpage: S.Blue
Restaurant & Bar
-
Sea
Fire Salt – Anantara Quy Nhon Villas
Địa chỉ: Anantara Quy Nhon Villas, Bãi Dại,
Ghềnh Ráng, TP. Quy Nhơn
Hotline: +84 256 3840 077 - Fanpage: Anantara Quy Nhon Villas
-
Hoàng
Thao Seaview
Địa chỉ: Đường số 4, thôn Lý Hưng, xã Nhơn
Lý, Quy Nhơn, Bình Định
Hotline: 0935361090
Fanpage: Hoàng Thao Seaview – Hải sản Eo Gió,
Quy Nhơn
-
Bếp
Nhà Xứ Nẫu
Địa chỉ: 68 Nam Cao, TP Quy Nhơn
Hotline: 090 560 90 08 - Fanpage: Bếp Nhà Xứ Nẫu
-
Cá
Khói Quy Nhơn
Địa chỉ: 04 Nguyễn Trung Tín, TP. Quy Nhơn
Hotline: 096 377 4377 - Fanpage: Cá Khói
-
Golden
Sand Zone – Hải sản, Nướng & Beer
Địa chỉ: 03 Nguyễn Thiếp, TP. Quy Nhơn
Hotline: 058 928 3456 - Fanpage: Golden Sand Zone –
Hải sản, Nướng & Beer
-
Cơm
ngon Quy Nhơn
Địa chỉ: 57 Nguyễn Thị Định , Quy Nhơn, Việt
Nam
Hotline: 090 535 93
51 – E:comngonquynhon@gmail.com
– W: comngonquynhon.vn
-
Nhà
hàng Mộc Viên
ĐC: 02 Võ Nguyên Giáp, Quy Nhơn, Bình Định,
Quy Nhon, Vietnam
Tel: 0868 012 468 - E: nhahangmocvienquynhon@gmail.com
-
Nhà
hàng Mộc Việt
ĐC: 30 Chương Dương, TP. Quy Nhơn, Bình Định,
Quy Nhon, Vietnam
Tel: 0868 012 468
E:nhahangmocviet@gmail.com
Nhà hàng hải sản Hoa Lư 2
Đc: 16 Trương Văn Của
Tel: 090 199 33 55
Nhà hàng Hương Việt
ĐC: 122 Xuân Diệu, Phường Hải Cảng, Thành phố
Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
Tel: 0256 3894 599 – E: amthuc@gmail.com
Nhà hàng sân bay
ĐC:Xã Cát Tân, Huyện Phù Cát, Tỉnh Bình Định
0834.888.777
nhahangsanbay86@gmail.com
Hải Sản Hướng Dương Quán ( Eo Gió )
ĐC:Hưng Lương Xã Nhơn Lý, Thành phố Quy
Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 091 490 81 33 - E: tourkyco.huongduongquan@gmail.com
Nhà Hàng Ẩm Thực Việt
ĐC:40 Tăng Bạt Hổ Phường Lê Lợi, Thành
phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 0256 6520099 - E: amthucviet.quynhon@gmail.com
Nhà Hàng Quốc Bảo
ĐC: 02 Mai Xuân Thưởng Phường Trần Hưng Đạo,
Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
info@quocbaopalace.vn
T: (0256) 6286 666
Nhà hàng Sinh Thái An Nam
ĐC: Tổ 2, KV2, Quy Hòa Phường Ghềnh Ráng,
Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
0705112379
amthuc@gmail.com
Nhà hàng Thuận Phát – Cơ sở 1
ĐC: Số 105 Hai Bà Trưng, khu phố 5
Phường Bồng Sơn, Thị xã Hoài Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 02563761 771- E: Thuanphat2100@gmail.com
Nhà hàng Thanh Thanh
ĐC: Quốc Lộ 19, Khu Vực Phú Xuân, Thị
trấn Phú Phong, Huyện Tây Sơn, Tỉnh Bình Định
T: 02563.88.0407 - E: nhahangthanhthanh.tayson@gmail.com
Nhà hàng Hương Biển
ĐC: Thiện Chánh 1, Phường Tam Quan Bắc, Thị
xã Hoài Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 0256 366 0169 – E: huongbienhoainhon@gmail.com
Nhà hàng Cine
ĐC: 94 Xuân Diệu Phường Hải Cảng, Thành
phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 02566521675 - E:amthuc@gmail.com
NHÀ HÀNG HẦM RƯỢU VINDENAU
ĐC: 58 Xuân Diệu, Phường Hải Cảng, Thành
phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 0975028858 – E: vdnthungan@gmail.com
Nhà Hàng Sáu Cao 2
ĐC: 06 Võ Nguyên Giáp, Phường Đống Đa,
Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 0256 3792 279 – E: saucao2restaurant@gmail.com
NHÀ HÀNG ANH NHẬT GIA VIÊN
ĐC: 1087 Trần Hưng Đạo, Phường Đống Đa, Thành
phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 0256 3794 493 – E:amthuc@gmail.com
CƠM NIÊU HỘI AN - QUY NHƠN
ĐC: Đường Nguyễn Tất Thành (nối dài) Phường
Lý Thường Kiệt, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 0914035334 – E: comnieuhoianquynhon@yahoo.com
NHÀ HÀNG QUỐC BẢO
ĐC:02 Mai Xuân Thưởng Phường Trần Hưng Đạo,
Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: (0256) 6286 666 – E: info@quocbaopalace.vn
3/ Cửa hàng đặc sản
-
Đặc Sản Ba Miền Vương Gia
Điện thoại: 0972 920 865 - 0989 635 336
Email: dacsanbamienvuonggia@gmail.com
Địa chỉ:12 Ngô Văn Sở, Tp. Quy Nhơn.
-
Đặc sản
Mận Khoa
Địa chỉ: 58 Vũ Bảo, TP. Quy Nhơn
Hotline: 0906.495.991
Email: quabinhdinh.vn@gmail.com
Website: www.quabinhdinh.vn
-
Đặc Sản Quy Nhơn
– Thanh Liêm
Điạ chỉ 1 : 128 Chương Dương –
TP.Qui Nhơn – tỉnh Bình Định
Điện Thoại : 02563821199
Điện Thoại : 02563847818
Email : caothanhliemvn@yahoo.com
-
Siêu
thị đặc sản Phương Nghi
115-117-119
tây sơn, P.ghành ráng, Tp. quy nhơn, Quy Nhon, Vietnam
Hotline: 091 950 78 39
-
Siêu
thị đặc sản Hương Biển
ĐC: 07 Nguyễn Tất Thành – Tel: 0905 568 3335
3/ Land tour đi đảo
1/ Land đi Hòn Khô:
Nhà hàng Hương Biển: Nhà hàng hải sản tại Hòn Khô. Chuyên tour
Hòn Khô - Kì Co - Cù Lao Xanh
ĐC: Hải Bắc - Nhơn Hải, Qui Nhon, Vietnam
Tel: 097 546 62 34
E: xuanhieptran2709@yahoo.com.vn
2/ Land đi đảo Kỳ Co:
Nhà hàng Vương Khang
ĐC: Đường Số 4, Nhơn Lý, Quy Nhon, Vietnam
Tel: 093 255 54 08
W: nhahanghaisanvuongkhang.com
Nhà hàng trên đảo Kỳ Co: 0343034636 Mr Nghiêm
Kỳ Co Travel
Địa chỉ:Việt Nam, Bình Định, Quy Nhơn.
Thôn Lý Lương, Xã Nhơn Lý
Điện thoại:Hotline: 0983 841 842
Email: kycotravel@gmail.com
Website: www.kycotravel.com
My Quy Nhơn
Địa chỉ : Tầng 2 tòa nhà 85/40 Hoàng Văn
Thụ - Phường Quang Trung - Tp Quy Nhơn
Điện thoại: 0822207222
3/ Quán Karaoke ở TP. Quy Nhơn
Karaoke Omely 5 – 07 Nguyễn Tất
Thành
Địa chỉ: 07 Nguyễn Tất Thành, Quy
Nhơn, Bình Định.
Điện thoại: 0256 3521199 –
0903579799
Karaoke Dragon – 07 Lê Duẫn
Địa chỉ: 07 Lê Duẫn, Quy Nhơn,
Bình Định
Điện thoại: 0988855744
Karaoke Dubai – 86 Huỳnh Mẫn Đạt
Địa chỉ: 86 Huỳnh Mẫn Đạt,Quy
Nhơn, Bình Định.
Điện thoại: 0256 6259 797
Karaoke Sky – TTTM An Phú Thịnh
Địa chỉ: lầu 6 trung tâm thương mại
An Phú Thịnh, Quy Nhơn, Bình Định.
Điện thoại: 090 217 11 99
Karaoke Kizz – 120 Nguyễn Thị Định
Địa chỉ: 120 Nguyễn Thị Định, Quy
Nhơn, Bình Định.
Số điện thoại: 0256 3646 643
Queen Karaoke – 96 Ỷ Lan
Địa chỉ: 96 Ỷ Lan, phường Thị Nại,
Quy Nhơn, Bình Định.
Số điện thoại: 093 732 42 09
4/ Massage ở TP. Quy Nhơn
- Zen spa – 270 Nguyễn Thị Định
- Chạm Spa – 152 Nguyễn Huệ
-
Yến Vy spa – 18/7 Trần Văn Ơn
-
assage Tân Hoàng Gia 2 – 104 Diên Hồng
-
Hoa Đà Spa – 17 Đoàn Thị Điểm
- Kimochi
ĐC: 38A Trần Văn Ơn, Quy Nhon, Vietnam
Tel:052 244 5588
5/ Quán nhậu ở TP. Quy Nhơn
-
Quán
ốc Khánh
ĐC: 34
Ngọc Hân Công Chúa, TP.Quy Nhơn
Tel: 0965 259 2 33
-
Quán
Ốc Thuý Kiều
ĐC: 5D Tăng Bạt Hổ, Quy Nhon, Vietnam
Tel:091 782 84 19
-
Quán
ốc 35K
ĐC: 318 Xuân diệu , Phường Trần Phú, Thành
Phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định, Vietnam
ĐT: 098 676 27 32
Email: Ductruc94@gmail.com
-
Quán
ốc Bông
Địa chỉ: 30 Ngọc Hân Công Chúa, P. Trần Phú,
TP. Quy Nhơn, Bình Định
Điện thoại: 0378 136 185
-
Quán
Ốc 94 Mai Xuân Thưởng
Địa chỉ: 94 Mai Xuân Thưởng, P. Lý Thường
Kiệt, TP. Quy Nhơn, Bình Định
-
Ốc
lốc cốc Quy Nhơn
Địa chỉ: 2/3 Phạm Ngọc Thạch, P. Trần Phú,
TP. Quy Nhơn, Bình Định
Điện thoại: 096 794 13 61
Fanpage: Fb.com/100067140188184